Đồng ý đề xuất đóng 1% lương để mua nhà

08:53 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /


Chính phủ vừa đồng ý với đề án lập quỹ tiết kiệm nhà ở và giao cho Bộ Xây dựng lấy ý kiến hoàn thiện thêm.

Theo các chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực bất động sản (BĐS), việc lập quỹ này là cần thiết, nhưng vẫn còn nhiều băn khoăn.

Trước đây, Bộ Xây dựng đã trình Chính phủ dự thảo quỹ tiết kiệm nhà ở, trong đó quy định người lao động (NLĐ) phải trích 1% tổng lương hằng tháng nhưng bị bác do không khả thi. Trong đề án lần này, hình thức tham gia quỹ mang tính tự nguyện với mức đóng góp dự kiến từ 1% tổng tiền lương hằng tháng của NLĐ. Đề án đưa ra 2 mô hình.

Xổ số nhà ở

Mô hình thứ nhất sẽ tập trung phát triển nhà ở xã hội. Người có thu nhập thấp sẽ được vay mua, mua trả góp nhà ở xã hội. Những doanh nghiệp (DN) tham gia phát triển nhà ở xã hội, nhà ở thu nhập thấp, nhà cho công nhân cũng được vay tiền từ nguồn quỹ này. Nguồn vốn sẽ trích từ tiền sử dụng đất thu được từ các dự án phát triển nhà ở thương mại, dự án khu đô thị mới; ngân sách địa phương hỗ trợ hằng năm; ngân sách trung ương cấp một lần ban đầu cho quỹ; một phần lợi nhuận từ phát hành xổ số kiến thiết hoặc xổ số nhà ở và nguồn vốn phát hành trái phiếu nhà ở.



Nên tập hợp nguồn vốn từ nhiều nơi
Theo TS Lê Chí Hiếu, Tổng giám đốc Công ty phát triển nhà Thủ Đức (Thuduc House), về giải pháp tài chính, hiện nay đã có quỹ phát triển nhà ở cả nước nhưng chỉ phát triển mạnh ở một số thành phố lớn, vì vậy nên có cơ quan chuyên về phát triển nhà ở, một thể chế tài chính xuyên suốt, tập hợp nguồn vốn từ nhiều nơi, kể cả quốc tế, với lãi suất thấp; sau đó cho những người có nhu cầu về nhà ở (người thu nhập thấp) vay với lãi suất thật thấp và thời gian kéo dài từ 20 năm trở lên. Quỹ này kêu gọi các nhà đầu tư, cho các DN vay triển khai nhà ở thu nhập thấp và quỹ sẽ mua lại quỹ nhà để bán cho người có thu nhập thấp với lãi suất thấp và thời gian dài.
Đây là chương trình xã hội nên bản thân người nghèo không thể lo được, vì vậy nhà nước nên có chính sách kêu gọi các DN, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, các quỹ đầu tư nước ngoài, nguồn vốn ODA từ quốc tế...  bỏ vốn vào với lãi suất thấp; đổi lại họ được hưởng các chính sách ưu đãi như: miễn giảm thuế, chính sách ưu đãi đầu tư...

Người tham gia đóng quỹ tối thiểu từ 5 năm sẽ được vay 30% giá trị của nhà ở cần mua. Thời gian vay trong 15 năm, lãi suất chỉ bằng 20-25% lãi suất của ngân hàng thương mại.

Mô hình thứ 2 tập trung vào đối tượng thu nhập trung bình có nhu cầu vay để mua nhà ở thương mại. Nguồn vốn cho quỹ chỉ được huy động từ đóng góp của những người có nhu cầu mua nhà. Bộ Xây dựng sẽ thành lập ngân hàng chuyên về tiết kiệm nhà ở quản lý hoặc giao cho một ngân hàng thương mại. Người tham gia sẽ được cho vay sau khi đã đóng vào quỹ khoảng 50% giá trị căn nhà mình muốn mua.

Trao đổi với báo giới, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam cho biết, với hơn 9 triệu NLĐ đang hưởng lương, chỉ cần mỗi người đóng góp 1% tiền lương mỗi tháng, hằng năm quỹ sẽ có không dưới 10.000 tỉ đồng. Số tiền này sẽ góp phần giải quyết khó khăn về nhà ở của người dân.

Đóng đến bao giờ mới mua nổi nhà?

Theo giới chuyên gia, việc triển khai mô hình quỹ tiết kiệm nhà ở là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, nếu không tính toán kỹ sẽ rất khó thực hiện, nhất là vấn đề quản lý, điều phối, giám sát quỹ.

TS Đỗ Thị Loan, Phó chủ tịch thường trực Hiệp hội BĐS TP.HCM, lo ngại nguồn thu của quỹ là từ tiền sử dụng đất, nhưng mấy năm nay do vướng Nghị định 69 nên nhà nước hầu như thu không được khoản tiền này. Trong khi đó, ngân sách các địa phương hỗ trợ hằng năm cho quỹ lại càng xa vời khi ngân sách hoạt động của nhiều tỉnh còn “nhìn” vào trung ương. TS Loan cũng phản đối cách huy động vốn từ việc phát hành xổ số nhà ở khi cho rằng việc này cũng đồng nghĩa với loại hình lô đề sẽ tăng lên.

Lãnh đạo một doanh nghiệp BĐS lo lắng hiện giá nhà đất tại VN quá cao, trong khi đối tượng tham gia vào quỹ lại là những người có thu nhập thấp và trung bình. Đến lúc người dân được vay tiền (5 năm sau khi tham gia vào quỹ) giá nhà sẽ còn tăng cao hơn nữa, thì đóng đến bao giờ người dân mới mua nổi nhà. Đơn cử, tính lương bình quân khoảng 5 triệu đồng mỗi tháng. Trích 1% là khoảng 600.000/năm và 10 năm được khoảng 6 triệu. Trong khi đó, căn hộ bình quân giá 1 tỉ đồng.

Ông Trần Minh Hoàng, Chủ tịch HĐQT Công ty Vinaland, lại lo lắng về vấn đề quản lý, điều phối, sử dụng quỹ. Bởi nếu không minh bạch, nguồn vốn trên sẽ bị sử dụng không đúng mục đích.

Cũng với nỗi lo tương tự, một chuyên gia BĐS phân tích việc thành lập một ngân hàng để quản lý nguồn vốn, cho vay với lãi suất khác với thị trường rất khó. Ngoài ra, nếu hoạt động không minh bạch, không có sự giám sát chặt, sẽ dễ dẫn đến lợi ích nhóm, vốn sẽ chảy vào những DN lớn mà không đến được tay người dân. Điển hình như tại TP.HCM cũng có quỹ phát triển nhà ở, nhưng sau 9 năm thành lập với vốn điều lệ 1.000 tỉ đồng thì có rất ít người tham gia. Hay chương trình phát triển nhà xã hội vẫn bị các DN thờ ơ.

Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, nhà nước nên tập trung phát triển loại hình căn hộ cho thuê hơn là để bán. Ban đầu người dân sẽ đi thuê nhà, đến khi nào có khả năng sẽ chuyển sang mua. “Nên đi từ từ, đừng chạy quá nhanh, nhảy vọt kẻo không đủ sức, khi đó té lại càng đau”, một chuyên gia ủng hộ giải pháp căn hộ cho thuê kết luận.
Kinh nghiệm từ các nước
Hiện rất nhiều nước trên thế giới triển khai mô hình này nhưng nguồn vốn chủ yếu từ Chính phủ rót xuống. Như mô hình Public Housing Fund (HPF) ở Trung Quốc nhằm hỗ trợ những người có thu nhập thấp và trung bình vay tiền mua nhà trong vòng 5 năm. Lãi suất HPF đang áp dụng là 4,7-4,9%/năm, thấp hơn so với mức lãi suất thị trường là 7,05%. HPF bắt buộc cả NLĐ và tuyển dụng lao động phải đóng từ 5-12% lương tháng. Nhưng nguồn vốn quan trọng là từ phát hành trái phiếu Chính phủ.
Tại Mỹ, Quỹ Housing Trust Fund (HTF) hình thành từ các khoản doanh thu như chuyển nhượng BĐS, các giấy tờ có giá trị... nhằm hỗ trợ người thu nhập thấp mua nhà. Ở Hàn Quốc không bắt buộc người dân tham gia quỹ nhưng khi mua hoặc bán nhà, phải mua trái phiếu Chính phủ trong vòng 10 năm, với giá trị chiếm khoảng 0,01 - 0,02% tổng giá nhà đất. Hay ở Singapore, bắt buộc tất cả những người làm công ăn lương phải đóng góp vào quỹ một khoản tiền, thời gian từ 10-15 năm...
Theo Thiên Bảo
Thanh Niên

TP HCM: Thu thuế đất phi nông nghiệp đến hết năm 2012

10:32 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /

Cục Thuế TP HCM cho biết đang tiến hành mọi thủ tục để thu thuế đất phi nông nghiệp và hạn cuối để người dân nộp thuế là cuối tháng 12/2012.

Cụ thể, ngành thuế đang phát tờ khai thuế đất phi nông nghiệp đến các hộ dân. Các địa phương phải nộp các tờ khai thuế (có xác nhận của UBND phường, xã) về Chi cục thuế các quận, huyện vào cuối tháng 6/2012 để ra thông báo thuế.

Đối tượng nộp thuế là: Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất, trong trường hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất thì người đang sử dụng đất sẽ là người nộp thuế. Riêng đối với những dự án căn hộ chung cư, đất nền thì chủ đầu tư sẽ là người nộp khoản thuế cho đến khi bàn giao nhà hoặc chuyển quyền sử dụng đất người mua. Diện tích đất tính thuế của các dự án chung cư được xác định bằng hệ số phân bổ nhân với diện tích nhà của hộ gia đình.

Thuế suất được xác định theo biểu thuế lũy tiến từng phần. Cụ thể: Phần diện tích trong hạn mức sẽ áp thuế suất 0,03%; phần diện tích vượt không quá 3 lần hạn mức sẽ áp thuế 0,07%; phần diện tích vượt trên 3 lần hạn mức thuế suất là 0,15%. Giá của 1m2 đất tính thuế là giá đất do UBND cấp tỉnh quy định hàng năm. Việc thu thuế đất phi nông nghiệp sẽ ổn định theo chu kỳ 5 năm, tính từ năm nay.

Theo Ngọc Thơ
DĐDN

Nhãn:

Sẽ siết lách luật thuế thu nhập từ bất động sản

13:49 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /

Theo Bộ Tài chính, có nhiều trường hợp lách luật trong chuyển nhượng bất động sản, do đó Bộ sẽ đề xuất trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung các quy định thuế thu nhập từ các hình thức chuyển nhượng bất động sản.

Theo Bộ Tài chính, trong dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân, ngoài việc kế thừa có chọn lọc các chính sách điều tiết thu nhập trước đây (thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân kinh doanh, thuế chuyển quyền sử dụng đất), Luật thuế TNCN đã bổ sung điều tiết đối với các khoản thu nhập mới phát sinh, như: thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán, thu nhập từ thừa kế, quà tặng là chứng khoán, phần vốn góp trong các tổ chức kinh tế, bất động sản và các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng.

Theo khoản 5 điều 3 Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN), thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản bao gồm: thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở; Thu nhập từ chuyển nhượng quyền thuê đất, quyền thuê mặt nước; Các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản.

Phó Vụ trưởng Vụ chính sách thuế (Bộ Tài chính) Nguyễn Văn Phụng cho biết, trên thực tế đã phát sinh các trường hợp như: người có bất động sản đã làm hợp đồng đổi nhà, đổi đất có phát sinh thu nhập; hợp đồng ủy quyền (thực chất là bán) cho các sàn giao dịch bất động sản tư nhân chuyển nhượng bất động sản…Các hoạt động này thực chất là chuyển nhượng bất động sản.

Để đảm bảo bao quát hết các trường hợp chuyển nhượng bất động sản, Bộ Tài chính đề xuất trình Chính phủ, Quốc hội sửa đổi, bổ sung quy định: thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản bao gồm cả thu nhập từ đổi nhà, đổi đất (nếu có), thu nhập từ ủy quyền chuyển nhượng nhà, đất mà người được ủy quyền có đầy đủ các quyền về nhà đất theo quy định của pháp luật.

Theo số liệu Bộ Tài chính thống kê, tiền thuế thu được từ bổ sung điều tiết đối với các khoản thu nhập trên đã tăng dần theo các năm. Trong năm 2009 tổng tiền thuế thu được từ các khoản trên là 23,7 tỷ đồng; năm 2010 là 861,2 tỷ đồng và năm 2011 là 1.540 tỷ đồng

Dự kiến, Bộ Tài chính sẽ đề xuất trình Chính phủ trình Quốc hội về hiệu lực thi hành của Luật trên từ ngày 1/1/2014.

Theo Khổng Nhung
VnMedia

Nhãn:

Quy định mới về phí công chứng

09:36 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /

Từ ngày 15/3/2012, theo quy định tại Thông tư liên tịch 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 của Liên Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp về hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng (thay thế Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008 của Liên Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng) thì mức phí công chứng mới được áp dụng như sau:

1. Mức thu phí công chứng hợp đồng, giao dịch được xác định theo giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch:
a. Đối với các hợp đồng, giao dịch:
- Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất (tính trên giá trị quyền sử dụng đất);
- Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất (tính trên tổng giá trị quyền sử dụng đất và giá trị tài sản gắn liền với đất);
- Hợp đồng mua bán, tặng cho tài sản khác, góp vốn bằng tài sản khác (tính trên giá trị tài sản);
- Văn bản thoả thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản (tính trên giá trị di sản);
- Hợp đồng vay tiền (tính trên giá trị khoản vay);
- Hợp đồng thế chấp tài sản, cầm cố tài sản (tính trên giá trị tài sản; trường hợp trong hợp đồng thế chấp tài sản, cầm cố tài sản có ghi giá trị khoản vay thì tính trên giá trị khoản vay);
- Hợp đồng kinh tế, thương mại, đầu tư, kinh doanh (tính trên giá trị hợp đồng):
Số TT
Giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch
Mức thu (đồng/trường hợp)
1
Dưới 50 triệu đồng
50.000
2
Từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng
100.000
3
Từ trên 100 triệu đồng đến 01 tỷ đồng
0,1% giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch
4
Từ trên 01 tỷ đồng đến 03 tỷ đồng
01 triệu đồng + 0,06% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 01 tỷ đồng
5
Từ trên 03 tỷ đồng đến 05 tỷ đồng
2,2 triệu đồng + 0,05% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 03 tỷ đồng
6
Từ trên 05 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng
3,2 triệu đồng + 0,04% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 05 tỷ đồng
7
Trên 10 tỷ đồng
5,2 triệu đồng + 0,03% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 10 tỷ đồng (mức thu tối đa không quá 10 triệu đồng/trường hợp)

b. Đối với các việc công chứng hợp đồng thuê quyền sử dụng đất; thuê nhà ở; thuê, thuê lại tài sản (tính trên tổng số tiền thuê):
Số TT
Giá trị hợp đồng, giao dịch (tổng số tiền thuê)
Mức thu (đồng/trường hợp)
1
Dưới 50 triệu đồng
40.000
2
Từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng
80.000
3
Từ trên 100 triệu đồng đến 01 tỷ đồng
0,08% giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch
4
Từ trên 01 tỷ đồng đến 03 tỷ đồng
800.000 đồng + 0,06% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 01 tỷ đồng
5
Từ trên 03 tỷ đồng đến 05 tỷ đồng
02 triệu đồng + 0,05% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 03 tỷ đồng
6
Từ trên 05 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng
03 triệu đồng + 0,04% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 05 tỷ đồng
7
Từ trên 10 tỷ đồng
05 triệu đồng + 0,03% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 10 tỷ đồng (mức thu tối đa không quá 8 triệu đồng/trường hợp)

Lưu ý: Đối với các hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất, tài sản có giá theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giá trị quyền sử dụng đất, giá trị tài sản tính phí công chứng được xác định theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng, giao dịch đó; trường hợp giá đất, giá tài sản do các bên thoả thuận thấp hơn mức giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định áp dụng tại thời điểm công chứng thì giá trị tính phí công chứng được tính như sau: Giá trị quyền sử dụng đất, giá trị tài sản tính phí công chứng = Diện tích đất, số lượng tài sản ghi trong hợp đồng, giao dịch (x) Giá đất, giá tài sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
 
2. Mức thu phí công chứng hợp đồng, giao dịch không theo giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch:
Số TT
Loại việc
Mức thu (đồng/trường hợp)
1
Công chứng hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp
40.000
2
Công chứng hợp đồng bán đấu giá bất động sản
100.000
3
Công chứng hợp đồng bảo lãnh
100.000
4
Công chứng hợp đồng uỷ quyền
40.000
5
Công chứng giấy uỷ quyền
20.000
6
Công chứng việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch (trừ việc sửa đổi, bổ sung tăng giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch thì áp dụng mức thu theo quy định tại khoản 2)
40.000
7
Công chứng việc huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch
20.000
8
Công chứng di chúc
40.000
9
Công chứng văn bản từ chối nhận di sản
20.000
10
Các công việc công chứng hợp đồng, giao dịch khác
40.000

3. Mức thu phí nhận lưu giữ di chúc: 100.000 đồng/trường hợp.

4. Mức thu phí cấp bản sao văn bản công chứng: 5.000 đồng/trang, từ trang thứ ba (3) trở lên thì mỗi trang thu 3.000 đồng nhưng tối đa không quá 100.000 đồng/bản.

Nhãn:

Một số quy định mới về thuế GTGT

11:02 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /

Từ ngày 01/03/2012, Nghị định số 121/2011/NĐ-CP ngày 27/11/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT sẽ có hiệu lực thi hành. Theo đó, một số nội dung liên quan đến thuế GTGT sẽ có sự thay đổi. Cụ thể:

1. Bổ sung một số đối tượng không chịu thuế GTGT như: Dịch vụ phục vụ công cộng về vệ sinh, thoát nước đường phố và khu dân cư; duy trì vườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phố, chiếu sáng công cộng; dịch vụ tang lễ.

2. Bổ sung quy định về các trường hợp không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT, bao gồm: 

a) Hàng hóa, dịch vụ do đối tượng nộp thuế tại Việt Nam cung cấp ở ngoài Việt Nam, trừ hoạt động vận tải quốc tế mà chặng vận chuyển quốc tế có điểm đi và đến ở nước ngoài.

Trường hợp cung cấp dịch vụ mà hoạt động cung cấp vừa diễn ra tại Việt Nam, vừa diễn ra ở nước ngoài nhưng hợp đồng dịch vụ được ký kết giữa 02 (hai) doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế tại Việt Nam hoặc có cơ sở thường trú tại Việt Nam thì dịch vụ này phải chịu thuế giá trị gia tăng đối với phần giá trị hợp đồng thực hiện tại Việt Nam, trừ trường hợp cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho hàng hóa nhập khẩu.

b) Các khoản thu về bồi thường, tiền thưởng, tiền hỗ trợ nhận được, tiền chuyển nhượng quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác.

c) Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mua dịch vụ của tổ chức nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, cá nhân ở nước ngoài là đối tượng không cư trú tại Việt Nam như: sửa chữa phương tiện vận tải, máy móc, thiết bị (bao gồm cả vật tư, phụ tùng thay thế); quảng cáo, tiếp thị; xúc tiến đầu tư và thương mại; môi giới bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ; đào tạo; chia cước dịch vụ bưu chính, viễn thông quốc tế giữa Việt Nam với nước ngoài mà các dịch vụ này được thực hiện ở ngoài Việt Nam.

d) Tổ chức, cá nhân không kinh doanh, không phải là người nộp thuế giá trị gia tăng thì không phải kê khai, tính thuế giá trị gia tăng khi bán tài sản, kể cả trường hợp bán tài sản đang sử dụng để đảm bảo tiền vay tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng.

3. Làm rõ quy định về giá tính thuế trong một số trường hợp cụ thể như hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, hàng hóa chịu thuế bảo vệ môi trường, hàng hóa nhập khẩu …

4. Việc tính thuế đối với hoạt động kinh doanh bất động sản cũng có một số thay đổi so với quy định trước đây, cụ thể: Giá tính thuế GTGT là giá chuyển nhượng bất động sản trừ (-) giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng (quy định trước đây là giá đất thực tế tại thời điểm chuyển nhượng). Giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng được quy định cụ thể như sau:
  • Đối với trường hợp được Nhà nước giao đất để đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà để bán, giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng bao gồm tiền sử dụng đất phải nộp ngân sách nhà nước (không kể tiền sử dụng đất được miễn, giảm) và chi phí bồi thường, giải phóng mặt bằng theo quy định của pháp luật;
  • Trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá đất trúng đấu giá;
  • Trường hợp thuê đất để xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà để bán, giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là tiền thuê đất phải nộp ngân sách nhà nước (không bao gồm tiền thuê đất được miễn, giảm) và chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng theo quy định của pháp luật;
  • Trường hợp cơ sở kinh doanh nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá đất tại thời điểm nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất bao gồm cả giá trị cơ sở hạ tầng (nếu có); cơ sở kinh doanh không được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào của cơ sở hạ tầng đã tính trong giá trị quyền sử dụng đất được trừ không chịu thuế giá trị gia tăng. Trường hợp không xác định được giá đất tại thời điểm nhận chuyển nhượng thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá đất do UBND cấp tỉnh quy định tại thời điểm ký hợp đồng nhận chuyển nhượng.
  • Trường hợp cơ sở kinh doanh bất động sản thực hiện theo hình thức xây dựng - chuyển giao (BT) đổi công trình lấy đất thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá tại thời điểm ký hợp đồng BT theo quy định của pháp luật.
Lưu ý: trường hợp xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà để bán, chuyển nhượng hoặc cho thuê, thuế giá trị gia tăng sẽ tính theo số tiền thu được theo tiến độ thực hiện dự án hoặc tiến độ thu tiền ghi trong hợp đồng.

5. Ngoài ra, Nghị định 121/2011/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến phương pháp tính thuế; khấu trừ thuế GTGT đầu vào; hoàn thuế GTGT …

Nhãn:

Một số quy định mới về thuế TNDN

10:59 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /

Từ ngày 01/03/2012, Nghị định số 122/2011/NĐ-CP ngày 27/12/2011 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp sẽ có hiệu lực thi hành. Theo đó, một số nội dung liên quan đến thuế TNDN sẽ có sự thay đổi. Cụ thể: 

1. Chênh lệch do đánh giá lại giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn được tính dần vào thu nhập khác trong thời gian tối đa không quá 10 năm kể từ năm có tài sản đi góp vốn. Như vậy, quy định này không phân biệt giữa quyền sử dụng đất có thời hạn và quyền sử dụng đất lâu dài cũng như doanh nghiệp nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất có thực hiện việc góp vốn tiếp hay không, có trích khấu hao hay không, miễn là có phát sinh chênh lệch khi đánh giá lại quyền sử dụng đất vào các mục đích như trên thì doanh nghiệp phải nộp thuế TNCN và được tính dần vào thu nhập khác trong thời gian tối đa không quá 10 năm kể từ năm có tài sản đi góp vốn. 

So với quy định tại Thông tư số 40/2010/TT-BTC ngày 23/3/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn xác định thu nhập chịu thuế đối với khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản thì quyền sử dụng đất được doanh nghiệp thực hiện đánh giá lại theo quy định để góp vốn, để điều chuyển khi chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp mà phát sinh chênh lệch thì tùy trường hợp phải nộp thuế TNDN đối với khoản chênh lệch do đánh giá lại quyền sử dụng đất hoặc tạm thời không phải chịu thuế TNDN. 

2. Thu nhập từ chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại các khoản nợ phải trả có nguồn gốc ngoại tệ cuối năm tài chính cũng phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (trừ chênh lệch tỷ giá phát sinh trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản để hình thành tài sản cố định mà tài sản cố định này chưa đưa vào sản xuất kinh doanh), thu nhập từ bán phế liệu, phế phẩm không liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh đang được hưởng ưu đãi thuế cũng thuộc đối tượng phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. 

3. Nghị định cũng bổ sung quy định về các khoản chi thực tế cho hoạt động phòng, chống HIV/AIDS nơi làm việc của doanh nghiệp theo hướng dẫn của Bộ Y tế (bao gồm: chi phí đào tạo cán bộ phòng, chống HIV/AIDS của doanh nghiệp, chi phí tổ chức truyền thông phòng, chống HIV/AIDS cho người lao động của doanh nghiệp, phí thực hiện tư vấn, khám và xét nghiệm HIV, chi phí hỗ trợ người nhiễm HIV là người lao động của cơ sở kinh doanh) cũng được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. 

4. Bổ sung các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN: 

- Khoản trích lập Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm (trừ trường hợp doanh nghiệp không thuộc diện bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật). 

- Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân; thù lao trả cho sáng lập viên doanh nghiệp không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh; tiền lương, tiền công, các khoản hạch toán chi khác để trả cho người lao động nhưng thực tế không chi trả hoặc không có hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật; các khoản chi tiền thưởng, chi mua bảo hiểm nhân thọ cho người lao động không được ghi cụ thể điều kiện được hưởng và mức được hưởng tại một trong các hồ sơ sau: Hợp đồng lao động; Thỏa ước lao động tập thể; Quy chế tài chính của Công ty, Tổng công ty, Tập đoàn; Quy chế thưởng do Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc quy định theo quy chế tài chính của Công ty, Tổng công ty.

Nhãn: