Lắm trò làm người mua “sập bẫy”

09:41 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /

Vay mượn tiền nhưng lại làm hợp đồng ủy quyền bán nhà, đất, nhiều người mua xính vính với giao dịch giả tạo này.

Theo báo cáo của TAND TP.HCM, lượng án dân sự trong năm 2012 tăng gần 2.000 vụ so với năm 2011, chủ yếu vẫn là tranh chấp hợp đồng mua bán nhà đất, tranh chấp quyền sở hữu nhà đất… Ngoài việc đối mặt với giấy tờ giả người dân còn gặp nhiều rủi ro khác trong giao dịch nhà, đất.

Chỉ vì thiếu kinh nghiệm hoặc chủ quan, nhiều người mua nhà, đất đã chuốc sự phiền phức và thiệt hại về cho mình.
Người mua nhà, đất sẽ yên tâm hơn khi tham khảo ý kiến tư vấn pháp lý trước khi giao dịch.

Mua nhầm nhà ủy quyền giả tạo

Trên thực tế, có nhiều trường hợp vay mượn tiền rồi làm tin bằng cách ký hợp đồng ủy quyền cho chủ nợ bán nhà. Sau khi mua nhà từ người được ủy quyền, người mua mắc nạn do bị người ủy quyền tranh chấp.

Cần nhà ở nên ông Hùng quyết định mua một căn nhà tại phường 21, quận Bình Thạnh (TP.HCM). Căn nhà này do bà Tiếp làm chủ sở hữu và bà này đã ủy quyền cho bà Nhung được mua bán trong thời hạn 20 năm. Ký công chứng xong thì ông Hùng trả 1,5 tỉ đồng cho bà Nhung để thực hiện tiếp việc sang tên. Không ngờ vài ngày sau, Phòng TN&MT quận thông báo với ông căn nhà đang bị yêu cầu ngăn chặn không cho đăng bộ vì có tranh chấp. Cụ thể là bên ủy quyền tranh chấp với bên được ủy quyền trong việc bán nhà. Theo bà Tiếp, sự thật là bà vay tiền của bà Nhung nhưng phải làm hợp đồng ủy quyền cho bà Nhung được quyền bán nhà. Do việc ủy quyền chỉ mang tính hình thức nên bà không đồng ý bán nhà.

“Tôi không cần biết tranh chấp của hai bên ra sao vì tôi là người mua hợp pháp, tiền bạc cũng đã thanh toán đủ” -a ông Hùng bày tỏ. Không còn cách nào khác hơn, ông đã kiện người ngăn chặn, tức là chủ sở hữu căn nhà. Tuy nhiên, TAND quận Bình Thạnh đã ra quyết định đình chỉ vụ án vì ông không cung cấp được địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nhung, tức người được ủy quyền và là người đã đứng ra ký giấy bán nhà cho ông.

Dính vào nhà chưa làm xong thủ tục

Theo luật định, nhà, đất có giấy chủ quyền mới được giao dịch. Thế nhưng dù biết rõ người bán chưa đứng tên trên giấy chứng nhận, nhiều người vẫn nôn nóng muốn mua ngay và bị mắc bẫy.

Năm 2010, bà Sương mua căn nhà của bà Hoa tại quận 8. Căn nhà này do bà Hoa mua lại của người khác tên D. Sau khi giao tiền nhưng không thấy làm thủ tục mua bán, bà Sương đã kiện bà Hoa ra tòa yêu cầu thực hiện hợp đồng. Tòa đã buộc bà Hoa phải trả lại tiền cho bà Sương.

Cùng lúc, bà D. cũng khởi kiện bà Hoa ra tòa vì cho rằng bà Hoa chưa trả đủ tiền cho mình mà đã bán nhà cho người khác. Tòa tuyên buộc bà Hoa phải trả nốt tiền mua nhà còn thiếu và bà D. có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án buộc bà Hoa phải thực hiện xong việc mua bán nhà đất.

Tuy nhiên, sau khi có bản án, bà D. không đả động gì đến việc yêu cầu thi hành án. Trong khi đó, bà Sương vẫn chưa được bà Hoa trả lại tiền nên rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Bà Sương muốn mua nhà để sử dụng nhưng lại phụ thuộc vào việc yêu cầu thi hành án của bà D. và sự việc cứ nhùng nhằng đến nay.

Đột nhiên bị phát mại

Cũng có trường hợp người mua nhà vào ở nhiều năm liền thì bị ngân hàng mang đi phát mại. Tháng 4-2008, chị Bình bỏ ra hơn 230 triệu đồng mua căn nhà 25 m2 của bà Thủy tại xã Trung Chánh (huyện Hóc Môn). Căn nhà này trước đó bà Thủy mua của người khác và chưa làm thủ tục tách thửa, sang tên. Ngoài chị Bình, bà Thủy còn bán một mảnh đất cùng thửa với chị Bình cho một người khác. Khi bán, bà Thủy cam kết khi nào chủ cũ làm thủ tục sang tên cho bà, bà sẽ sang tên căn nhà cho chị Bình nhưng sau khi lấy tiền, bà Thủy cứ khất hẹn.

Đang ở yên lành thì vào cuối năm 2011, Chi cục THA huyện Hóc Môn thông báo cho chị Bình là sẽ kê biên, phát mại nhà đất theo yêu cầu của một ngân hàng. Theo hồ sơ ngân hàng cung cấp, toàn bộ nhà, đất trên bà Thủy đã làm thủ tục tặng cho con trai mình hai ngày trước khi bán cho chị Bình. Căn cứ trên giấy tặng cho này, Phòng TN&MT huyện Hóc Môn đã sang tên cho con trai bà Thủy và anh này mang thế chấp cho ngân hàng. Hành vi gian dối của bà Thủy đang được Công an TP.HCM xem xét, xử lý.

Bán nền đất bằng… nước bọt!

Cuối năm 2011, ông Sáng (xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh) mua của bà A. hơn 1.400 m2 đất nông nghiệp với giá 3 tỉ đồng và ông Sáng đặt cọc 100 triệu đồng. Trong hợp đồng, ông thỏa thuận sẽ công chứng hợp đồng, trả đủ tiền sau ba tháng. Sau đó,ông phân lô bán cho nhiều người giá 50 đến 70 triệu đồng/lô. Khi người mua định rào chắn thì bị ngăn cản. Người mua tìm hiểu mới biết giữa ông Sáng với bà A. đã hủy hợp đồng đặt cọc, ông Sáng đã hoàn trả giấy tờ đất trên cho bà A.

Tuy vậy, ông vẫn tiếp tục bán đất trên cho nhiều người. Khi bị người mua đòi tiền thì ông nói: “Nếu ai muốn lấy lại tiền thì từ từ tôi trả, còn không thì chờ tôi phân lô nơi khác sẽ bù. Nếu ai thưa kiện thì một đồng tôi cũng không trả”. Rồi ông chỉ cho lô đất khác nhưng giá cao hơn nền cũ… năm lần nên chẳng ai chịu nhận.

Một trường hợp khác: Giữa năm 2008, Trúc (quận 8) nói với ông Liêm (quận 11) là mình có dự án xây dựng khu dân cư rộng 12.000 m2 tại Long An rồi mời ông Liêm mua nền. Sau đó, Trúc đưa người cậu vợ - người đứng tên chủ quyền - ký giấy tay bán đất cho ông Liêm kèm theo thỏa thuận “ngay sau khi ông Liêm giao 2,5 tỉ đồng thì Trúc giao ngay năm nền đất cho ông”. Một tháng sau, ông Liêm quay lại thấy người lạ đang xây nhà trên nền mình vừa mua vì Trúc đã… bán số đất trên cho họ. Ngoài ông Liêm, còn rất nhiều người ở quận 6, 8, Bình Tân có nhà bị giải tỏa nghe lời rủ rê của Trúc đổ xô về đây mua đất để rồi ngậm đắng nuốt cay.


Vụ lừa đảo đất đai chấn động Mỹ Tho

Cuối tháng 8-2012, công an bắt giữ Phạm Thị Ngọc Ánh (xã Trung An, TP Mỹ Tho) và Phạm Hữu Tiến (phường 3, TP Mỹ Tho) khi hai người này đang trốn lệnh truy nã tại một khách sạn ở Quảng Trị. Bước đầu công an xác định họ đã lừa đảo hơn 7 tỉ đồng trong việc mua bán đất đai.
Tháng 11-2010, Ánh mua gần 1.000 m2 đất tại phường 10, TP Mỹ Tho với giá 450 triệu đồng nhưng kêu chủ đất ký hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng đất và đưa trước cho bà 50 triệu đồng. Ngay sau đó, Ánh bán lô đất cho một người khác lấy 385 triệu đồng rồi bỏ trốn.

Với thủ đoạn tương tự, Ánh bán hơn 2.000 m2 đất của hai người dân, thu lợi 600 triệu đồng. Ngoài thủ đoạn trên, Ánh và Tiến còn mua đất giấy tay, đưa trước cho chủ đất một khoản tiền nhỏ rồi chia lô, bán rẻ cho nhiều người và ôm tiền bỏ trốn.


Theo Ái Nhân - Cẩm Tú
PL TPHCM

Để tránh gặp phải các rủi ro trong giao dịch bất động sản, Quý Khách hàng nên tham khảo ý kiến tư vấn của luật sư, chuyên gia pháp lý trước khi thực hiện giao dịch.

Nhãn:

Áp thuế Thu nhập cá nhân từ tháng 7/2013

14:43 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /

Áp thuế Thu nhập cá nhân từ tháng 7/2013

Đa số ĐBQH đề xuất áp dụng luật Thuế TNCN sửa đổi từ ngày 1/7/2013, tán thành nâng mức khởi điểm chịu thuế lên 9 triệu đồng và giảm trừ cho người phụ thuộc lên 3,6 triệu đồng.

Không giảm trừ gia cảnh từ con thứ 3

Đa số ý kiến đều tán thành nâng mức khởi điểm chịu thuế lên 9 triệu đồng cho người nộp và 3,6 triệu đồng cho người phụ thuộc.

ĐB Lê Công Vĩnh, tỉnh Long An cho rằng đối với chi tiêu cá nhân, ta chưa có điều tra cũng như công bố chính thức, tuy nhiên theo ước toán, chi tiêu cho mỗi cá nhân tại các thành phố hiện vào khoảng 7-8 triệu đồng/tháng, chưa kể giải trí. Với mức này thì việc đưa ra mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân 9 triệu đồng có thể chấp nhận được, vừa giúp khoan sức dân vừa góp phần kích cầu tiêu dùng.

Tuy nhiên, ĐB Vĩnh cũng lưu ý rằng để thực hiện khuyến khích kế hoạch hóa gia đình thì chỉ giảm trừ gia cảnh cho 2 con trở xuống thôi, không thể giảm cho con thứ 3 trở lên được.

Theo ĐB Nguyễn Lâm Thành, tỉnh Lạng Sơn, cần xét ưu tiên giảm, miễn trừ thuế TNCN cho nhóm lao động đặc thù là các chuyên gia làm việc tại khu công nghệ cao, phần mềm, để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao.

ĐB Cao Sỹ Kiêm, tỉnh Thái Bình cho rằng mức điều chỉnh 9 triệu đồng cho người nộp và 3,6 triệu cho người phụ thuộc là hợp lý. Tuy nhiên, đối tượng không được giảm trừ vẫn còn nhiều khó khăn, vì vậy đề nghị Chính phủ tạo ra nhiều chính sách an sinh khác để đảm bảo giảm thiệt thòi cho người chịu thuế, bên cạnh đó là quản lý kiểm tra với người có thu nhập cao, hiện nay nhiều khoản thu nhập được giấu và không được kiểm soát.

Theo ông Kiêm, phải tiếp tục khống chế, quản lý tăng giảm biên chế tích cực. Biên chế ngày càng phình ra, thì quỹ lương tăng lên, lãng phí lớn. Giảm biên chế sẽ giúp giảm chi, tăng thu ngân sách tích cực và hợp lý.

ĐB Phạm Xuân Thường, tỉnh Thái Bình, cho rằng cả nước có tới 3,2 triệu hộ sản xuất kinh doanh nhỏ nhưng chỉ có 194.000 hộ nộp thuế thu nhập, còn lại là thuế khoán, vì vậy cần có xem xét cụ thể về đối tượng này để đảm bảo công bằng.

ĐB Trần Thanh Hải, TP.HCM cũng nhất trí với điều chỉnh mức khởi điểm 9 triệu đồng và 3,6 triệu đồng, nhưng cho rằng Nhà nước đang thực hiện nhiều chính sách phụ cấp với người lao động làm việc trong lĩnh vực nặng nhọc để kéo dài tuổi thọ nghề nghiệp của họ hay trợ cấp để chia sẻ khó khăn cho người lao động... Nếu tất cả những khoản đó phải chịu thuế thu nhập thì chưa biết cuộc sống của người lao động sẽ ra sao, do đó cần phải bỏ những quy định này cho người lao động có cuộc sống và tương lai tốt hơn.

Nộp vào giữa năm

Không ít ý kiến đề nghị luật Thuế TNCN sửa đổi lần này cần áp dụng ngay từ ngày 1/1/2013 để đem lại niềm vui cho nhân dân cả nước. Dẫn lời một cử tri có thu nhập 16 triệu đồng/tháng đang phải nuôi cha mẹ già và 2 con nhỏ, ĐB Trần Thanh Hải mong muốn QH sớm điều chỉnh, nên áp dụng từ 1/1/2013 dù ngành thuế sẽ gặp khó khăn về các thay đổi như biểu mẫu, nhưng sớm mang lại lợi ích cho người dân.

Tuy nhiên, theo Phó chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân, thì sau khi tổng kết các ý kiến từ thảo luận tổ ngày 5/11 và thảo luận tại hội trường sáng nay 15/11, đa số các ý kiến đều cho rằng nên áp dụng từ 1/7/2013. Bởi vì áp dụng từ ngay đầu năm 2013 ngân sách nhà nước sẽ thất thu khoảng 5.200 tỷ đồng trong khi nhiều công trình phúc lợi đang rất cần vốn.

Các ĐB cho rằng thời điểm áp dụng luật phù hợp nhất là từ 1/7/2013 và nên tiếp tục gia hạn thời gian miễn giảm thuế hiện hành đến lúc đó.

Theo Trần Thủy
Vietnamnet

Nhãn:

Dự thảo Dự thảo Luật Đất đai: Chưa thực sự đột phá

13:46 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /


Nhiều chuyên gia đánh giá, dự thảo sửa đổi Luật Đất đai chưa có bước đột phá; thậm chí, có những đổi mới tại dự thảo lại bị lo ngại là "bước đi" thụt lùi...

GS.TSKH Đặng Hùng Võ, nguyên thứ trưởng Bộ TN&MT lo ngại điểm mới của dự thảo lại là bước thụt lùi

Theo ý kiến của nhiều chuyên gia tại hội thảo "Tham vấn, đóng góp ý kiến cho nội dung sửa đổi Luật Đất đai năm 2003" do Quỹ Hợp tác và Phát Triển (C&D) và Ủy ban kinh tế của Quốc hội, dự thảo đưa ra còn tồn tại nhiều hạn chế. Đặc biệt, dự thảo chưa có những ý tưởng gì ngăn chặn nguy cơ tham nhũng từ đất đai.

Dễ nảy sinh tiêu cực

Trước năm 2003, trung bình khoảng 2,5 năm lại sửa luật hoặc pháp lệnh liên quan đến đất đai một lần (gồm giá đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, giá trị bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất). Theo GS.TSKH Đặng Hùng Võ, nguyên thứ trưởng Bộ TN&MT, tình trạng này thể hiện ưu điểm về tính tích cực của Nhà nước nhưng lại cho thấy nhược điểm của quá trình sửa đổi, bổ sung pháp luật đất đai không có tầm nhìn dài. "Nếu có thể nên lùi thời hạn thông qua luật sửa đổi đất đai để có thêm những đột phá mới và hạn chế được những điểm còn hạn chế của dự thảo đưa ra lấy ý kiến lần này", ông Võ đưa ra ý kiến.

Phát biểu tại hội thảo, ông Lê Thanh Khuyến, phó tổng cục trưởng Tổng cục quản lý đất đai (Bộ TN&MT), đại diện ban soạn thảo cho biết: "Dự thảo đưa ra lấy ý kiến lần này đã làm theo đúng trình tự quy định. Trong đó, ban soạn thảo cũng đã có báo cáo đánh giá về lồng ghép giới trong dự thảo".

Tuy nhiên, theo ông Đặng Hùng Võ, dự thảo luật chưa có thay đổi về chính sách lớn mà chỉ thay đổi chi tiết, sửa sang câu chữ, thậm chí có điểm là bước thụt lùi. "Dự thảo luật mới chỉ đứng trên quyền lợi Nhà nước, chứ chưa đứng về phía người dân. Đặc biệt như quy định quyền giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân được giao cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh thay vì UBND như trước đây.

Theo luận giải của những người soạn thảo là để rút ngắn các công đoạn, thúc đẩy nhanh việc giao đất. Tuy nhiên, theo tôi, cái đích mà chúng ta cần hướng đến không phải là nhanh mà cần kiểm soát quyền lực của cá nhân có nguy cơ tham nhũng đất đai. Không thể tập trung quyền quyết định vào một cá nhân. Quá trình thẩm tra giao đất cần phải được kiểm soát chặt chẽ
", ông Võ nói. Theo chuyên gia này, việc trao quyền từ tổ chức sang cá nhân chắc chắn sẽ khiến nguy cơ tham nhũng nhiều hơn.

Tham nhũng trong quản lý đất đai đang ở nhóm đứng đầu trong "bảng tham nhũng". Nghiên cứu của Đại sứ quán Đan Mạch, Đại sứ quán Thụy Điển và nhóm các nước tài trợ cho Việt Nam đã chỉ ra hai dạng chủ yếu dẫn đến tham nhũng trong quản lý đất đai: Tham nhũng xuất hiện trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quá trình thu đất của người đang sử dụng để giao trực tiếp cho nhà đầu tư đã được chỉ định. Tuy nhiên, theo ông Võ, trong dự thảo không có những ý tưởng mới để điều chỉnh, kiểm soát, ngăn chặn nguy cơ tham nhũng trong lĩnh vực này.

Cần tính đến sinh kế lâu dài cho dân

Đặc biệt, theo kết quả tham vấn được thực hiện tại 3 địa bàn: Huyện Yên Dũng (Bắc Giang), huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh), huyện Củ Chi (TP.HCM) về việc thu hồi đất do các tổ chức Trung tâm nâng cao năng lực bảo vệ môi trường (CEC), Trung tâm giáo dục và truyền thông môi trường (CEACE) và Trung tâm phát triển cộng đồng tỉnh Hà Tĩnh (HCCD) thực hiện, đa số ý kiến của người dân đều cho rằng chỉ nên cưỡng chế thu hồi đất trong trường hợp sử dụng không đúng mục đích và vi phạm pháp luật.

Ông Nguyễn Văn Định, giám đốc HCCD cho biết: "Gần 100% ý kiến của người dân được hỏi đều chung kiến nghị khi Nhà nước thu hồi thì người dân phải được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng. Nếu không có đất để bồi thường thì người dân được bồi thường bằng tiền". Các chuyên gia tại hội thảo đều chung nhận định, tất cả các cơ chế bồi thường hiện nay đều không tính đến sinh kế và quyền lợi lâu dài của người dân.

Theo đại diện của Ngân hàng Thế giới (WB), cần thay đổi căn bản nguyên tắc bồi thường, theo đó, bỏ cơ chế Nhà nước bồi thường tiền một lần rồi bắt dân đi nơi khác. Đại diện WB chia sẻ, các nước trên thế giới như Ấn Độ, Nhật Bản đều áp dụng "nguyên tắc cao nhất là người dân phải được quyền thụ hưởng lợi ích từ dự án đầu tư". Đặc biệt, ở Ấn Độ, với các dự án kinh tế cần thu hồi đất của người dân, họ sẽ có đánh giá tác động của dự án với cộng đồng xã hội. Ở Việt Nam chưa làm được những điều này.

GS.TSKH Đặng Hùng Võ cho rằng: "Cần có một tổ chức, đơn vị độc lập định giá đất để đảm bảo tính công bằng trong việc bồi thường khi thu hồi đất của người dân".

Các ý kiến tham vấn tại hội thảo từ WB, liên mạng Vận động chính sách (INPA), từ các chuyên gia đất đai đều đồng tình quan điểm chỉ thu hồi đất với dự án vì mục đích công cộng, lợi ích quốc gia, quốc phòng an ninh. "Vừa qua, có nhiều bộ ngành đề nghị di dời trụ sở chuyển đến nơi mới. Việc xây dựng trụ sở các bộ cũng thu hồi đất của dân, sau đó bộ chuyển đi thì bán trụ sở. Những trường hợp thu hồi có yếu tố cơ chế thương mại cần phải được quy định chặt chẽ hơn trong sửa đổi Luật Đất đai được thông qua tới đây", ông Võ nhấn mạnh.

Chưa có những bước đột phá thực sự

Dự thảo sửa đổi Luật Đất đai 2003 sẽ được Chính phủ trình Quốc hội vào tháng 10/2012 và dự kiến sẽ thông qua Quốc hội vào tháng 6/2013. Tuy nhiên đến nay, dự thảo vẫn chưa nhận được sự đồng tình cao. Nhiều ý kiến của các chuyên gia, người dân và các tổ chức xã hội vẫn tỏ ra băn khoăn về bản dự thảo vẫn chưa có những bước đột phá và ít điểm mới.

Theo Đỗ Thơm
NĐT

Nhãn:

Gỡ vướng để cấp Giấy chứng nhận

15:34 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /


Nhằm thực hiện một số giải pháp để đẩy nhanh việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (“Giấy Chứng Nhận”) tại các dự án phát triển nhà ở, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có văn bản số 2470/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 17/7/2012 gửi UBND Tp. Hà Nội và Tp. HCM. Theo đó:
 

1. Các vướng mắc, vi phạm pháp luật đất đai, nhà ở, xây dựng tại các dự án phát triển nhà ở thuộc Tp. Hà Nội và Tp. HCM sẽ được giải quyết theo các nguyên tắc sau:


- Dự án phát triển nhà ở mà chủ đầu tư chưa nộp xong tiền sử dụng đất thì phải nộp tiền sử dụng đất trước khi cấp Giấy Chứng Nhận cho người mua nhà.

- Trường hợp vướng mắc, vi phạm pháp luật không do lỗi của người mua nhà ở thì phải bảo đảm quyền lợi của người mua nhà ở đó.

- Chủ đầu tư vi phạm pháp luật đất đai, nhà ở, xây dựng thì đình chỉ không cấp giấy phép đầu tư và không giao đất, cho thuê đất mới ở địa phương cho đến khi xử lý, khắc phục xong sai phạm tại các dự án đang thực hiện.

2. Những trường hợp sau đây sẽ được thực hiện cấp Giấy Chứng Nhận cho người mua nhà ở mà không chờ phải giải quyết xong tồn tại, vướng mắc, vi phạm pháp luật của chủ đầu tư. Cụ thể:

- Trường hợp đã giải phóng xong mặt bằng và giao đất cho chủ đầu tư; chủ đầu tư đã hoành thành nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật và đã xây dựng, bàn giao xong nhà ở cho người mua nhà theo đúng quy hoạch, thiết kế xây dựng được phê duyệt hoặc giấy phép xây dựng đã cấp, nhưng hiện còn một số trường hợp khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa giải quyết xong thì vẫn cấp Giấy Chứng Nhận cho người mua nhà ở;

- Trường hợp dự án có một phần diện tích đã giải phóng xong mặt bằng và giao đất cho chủ đầu tư; chủ đầu tư đã hoành thành nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật và đã xây dựng, bàn giao xong nhà ở cho người mua nhà theo đúng quy hoạch, thiết kế xây dựng được phê duyệt hoặc giấy phép xây dựng đã cấp thì vẫn cấp Giấy Chứng Nhận cho người mua nhà ở đối với phần diện tích đã hoàn thành xây dựng, bàn giao xong nhà ở đó;

- Trường hợp chủ đầu tư đã hoàn thành thủ tục pháp lý về đất đai, đã xây dựng, bàn giao nhà ở cho người mua nhà mà nhà ở đó được xây dựng vượt quá số tầng hoặc thay đổi thiết kế, công năng sử dụng ở một số tầng thì vẫn cấp Giấy Chứng Nhận cho người mua nhà ở tại các căn hộ ở các tầng, lô đất đã xây dựng đúng thiết kế, quy hoạch được duyệt;

- ...

3. Giải pháp xử lý tồn tại, vi phạm pháp luật của chủ đầu tư tại các dự án phát triển nhà ở:

- Trường hợp chủ đầu tư đã hoàn thành thủ tục pháp lý về đất đai nhưng xây dựng nhà ở không đúng quy hoạch, thiết kế xây dựng được phê duyệt hoặc giấy phép xây dựng đã cấp thì tùy trường hợp cụ thể sẽ thực hiện cấp Giấy Chứng Nhận như sau:

+ Trường hợp xây dựng nhà ở vượt số tầng hoặc thay đổi thiết kế, công năng sử dụng ở một số tầng thì phải kiểm tra để đánh giá yêu cầu an toàn công trình, nếu không đảm bảo an toàn thì kiên quyết dỡ bỏ các tầng vi phạm hoặc điều chỉnh công năng các tầng vi phạm cho phù hợp. Riêng với tầng hầm dành cho để xe 2 bánh hoặc tầng dành cho sinh hoạt cộng đồng thì phải điều chỉnh trả lại công năng thiết thế ban đầu.

Trường hợp xác định vẫn đảm bảo an toàn công trình; trong quá trình xây dựng, các cơ quan có thẩm quyền không thanh tra, kiểm tra phát hiện và xử lý để vụ việc vi phạm quá thời hiệu xử phạt theo quy định của pháp luật hoặc có thanh tra, kiểm tra nhưng đã quá 02 năm kể từ ngày ký kết luận thanh tra, kiểm tra mà chưa xử lý dứt điểm thì quyết định cho tồn tại và phê duyệt điều chỉnh thiết kế đôi với phần sai phạm để cấp Giấy Chứng Nhận cho người mua nhà ở. Chủ đầu tư phải nộp bổ sung tiền sử dụng đất đối với diện tích xây dựng vượt số tầng hoặc thay đổi công năng sử dụng.

+ Trường hợp xây dựng mặt tiền của nhà ở không đúng thiết kế đã được phê duyệt hoặc giấy phép xây dựng đã cấp thì phải gỡ bỏ phần xây dựng trái phép để cấp Giấy Chứng Nhận cho người mua nhà ở. Trường hợp đã quá thời hiệu xử phạt và có kết luận của cơ quan thanh tra cho phép tồn tại thì quyết định cho tồn tại và phê duyệt điều chỉnh thiết kế mặt tiền công trình.

+ Trường hợp chủ đầu tư dự án nhà ở thấp tầng đã phân chia không đúng số lượng lô đất, không đúng diện tích theo quy hoạch được duyệt nhưng vẫn nằm trong phạm vi đất ở đã nộp tiền sử dụng đất ở theo quy hoạch và đã hoàn thành việc xây dựng, bàn giao nhà ở cho người mua nhà thì rà soát điều chỉnh quy hoạch, thiết kế công trình để cấp Giấy Chứng Nhận cho người mua nhà ở.

Trường hợp chưa xây dựng nhà ở để bán thì buộc phải phân chia lại các lô đất và đầu tư xây dựng nhà ở theo đúng quy hoạch được duyệt.

- Trường hợp chủ đầu tư tự ý chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển công năng sử dụng công trình xây dựng thành nhà ở và đã xây dựng, chuyển nhượng xong nhà ở mà chưa hoàn thành thủ tục pháp lý về đất đai:

+ Nếu công trình xây dựng vi phạm nghiêm trọng đến quy hoạch xây dựng thì kiên quyết xử lý buộc hoàn trả hiện trạng ban đầu và chủ đầu tư phải bồi thường thiệt hại cho người mua nhà theo quy định pháp luật.

+ Nếu phù hợp quy hoạch xây dựng được duyệt hoặc có thể điều chỉnh quy hoạch xây dựng để chuyển sang làm nhà ở thì UBND Thành phố xem xét quyết định cho phép chuyển mục đích và chủ đầu tư phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật tại thời điểm quyết định cho phép chuyển mục đích. Người mua nhà ở được cấp Giấy Chứng Nhận.

- Trường hợp chủ đầu tư được Nhà nước cho thuê đất nhưng đã xây dựng và chuyển nhượng nhà ở trên đất đó mà chưa chuyển sang giao đất có thu tiền sử dụng đất thì buộc chủ đầu tư phải làm thủ tục chuyển sang giao đất có thu tiền sử dụng đất và nộp tiền sử dụng đất để làm thủ tục cấp Giấy Chứng Nhận cho người mua nhà.

- Trường hợp chủ đầu tư được giao đất và đã xây dựng, bán xong nhà hoặc đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân và đã giải thể thì hộ gia đình, cá nhân tự thực hiện thủ tục cấp Giấy Chứng Nhận theo quy định.

- Ngoài ra, đối với trường hợp chủ đầu tư đã chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ quyền sử dụng đất cho chủ đầu tư khác (chủ đầu tư thứ cấp) thì tùy trường hợp cụ thể sẽ được điều chỉnh tương ứng để thực hiện cấp Giấy Chứng Nhận cho người mua nhà ở.

4. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân đã nhận chuyển nhượng nhà ở, đất ở của chủ đầu tư xây dựng nhà để bán thì có thể trực tiếp nộp hồ sơ để thực hiện thủ tục chuyển nhượng tại Văn phòng ĐKQSDĐ trong các trường hợp sau:

- Chủ đầu tư đã được cấp Giấy Chứng Nhận đối với phần diện tích đất đã xây dựng nhà chung cư để bán và đã có thông báo của Văn phòng ĐKQSDĐ cấp tỉnh về việc kiểm tra điều kiện chuyển nhượng nhà ở của chủ đầu tư phù hợp với quy định của pháp luật; 
- Chủ đầu tư đã được cấp Giấy Chứng Nhận cho từng lô đất hoặc từng căn hộ chưng cư trước khi chuyển nhượng nhà ở.

Nhãn:

Dự kiến khởi điểm chịu thuế TNCN: 9 triệu đồng

10:30 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /


Người dân có thu nhập trên 9 triệu đồng/tháng trở lên mới phải nộp thuế thu nhập cá nhân, đồng thời, sẽ được giảm trừ tới 3,6 triệu đồng/tháng cho một người phụ thuộc.

Sẽ tăng mức giảm trừ gấp 1,25 lần so với hiện hành

Sau 3 tháng lấy ý kiến các bộ ngành, cơ quan, bản mới nhất dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thuế thu nhập cá nhân đã được Bộ Tài chính trình Chính phủ.

Điểm tích cực nhất là Bộ này đã tăng mạnh các mức giảm trừ gia cảnh, khởi điểm chịu thuế so với tính toán ban đầu trên cơ sở tiếp thu các ý kiến đóng góp.

Theo đó, mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế là 9 triệu đồng/tháng tương ứng trên 108 triệu đồng/năm, giảm trừ cho người phụ thuộc 3,6 triệu đồng/tháng/người tương ứng 43,2 triệu đồng/người/năm. Nói cách khác, mỗi người dân phải có thu nhập trên 9 triệu đồng/tháng mới là mức khởi điểm chịu thuế.

Các mức điều chỉnh trên cao gấp 1,25 lần so với mức hiện hành và tăng thêm 50% so với đề xuất ban đầu.

Trong khi đó, theo phương án ban đầu được công bố hồi tháng 3, Bộ Tài chính chỉ dự kiến tăng mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế (khởi điểm chịu thuế) lên 6 triệu đồng/tháng, tăng mức giảm trừ cho người phụ thuộc lên 2,4 triệu đồng/tháng. Nếu so với mức hiện hành là trên 4 triệu đồng/tháng khởi điểm chịu thuế và 1,6 triệu đồng/tháng giảm trừ cho một người phụ thuộc, các mức dự kiến ban đầu này chỉ tăng thêm 50%.

Thời điểm Luật sửa đổi có hiệu lực sẽ bắt đầu từ 1/1/2014.

Theo một nguồn tin cho biết, lý do mà Bộ Tài chính sửa mạnh các mức điều chỉnh trên là vì nguyên cớ sau khi lấy kiến các cơ quan, bộ ngành, tỷ lệ không ủng hộ phương án của bộ chiếm phần lớn. Các mức giảm trừ trên đều được cho là quá thấp, sẽ trở nên lạc hậu vào thời điểm 2 năm tới, khi luật mới đi vào cuộc sống.

Bộ Tài chính khi đó cho hay, nguyên tắc tính khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân là phải cao hơn mức thu nhập bình quân toàn xã hội tại thời điểm Luật có hiệu lực. Nguyên tắc này đảm bảo những người có mức thu nhập trung bình trở xuống chưa phải nộp thuế. Đối chiếu nguyên tắc này vào thực tế cuộc sống, hầu hết, các ý kiến người dân đều cho rằng, mức thu nhập 6 triệu đồng/tháng vào hiện tại năm 2012 còn chưa đủ sống, nhất là khu vực thành thị, nói gì tới năm 2014 mà còn phải nộp thuế.

Theo bài toán của Bộ Tài chính, 4 căn cứ làm cơ sở điều chỉnh thuế là mức tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân giai đoạn 2011-2015, biến động chỉ số giá tiêu dùng (CPI), Đề án cải cách tiền lương tối thiểu giai đoạn 2012-2013 và kết quả điều tra xã hội học của Tổng Cục thống kê về mức thu nhập và đời sống dân cư thực hiện vào năm 2010.

Tuy nhiên, tất cả các dự báo của Bộ Tài chính đều dựa trên kịch bản nền kinh tế phát triển bình thường, không lạm phát, không suy giảm, không có khủng hoảng xảy ra. Chưa kể, nhiều ý kiến chuyên gia cũng lo ngại, việc lấy kết quả điều tra mức sống dân cư từ năm 2010 để áp dụng cho năm 2014 thì giá trị thực tiễn, tính chính xác sẽ không còn nhiều.

Có thể thấy, phương án điều chỉnh mới về giảm trừ gia cảnh của Bộ Tài chính trùng với kiến nghị của Cục Thuế Tp HCM hồi đầu tháng 4.

Khi đó, Cục Thuế Tp HCM cho biết, Luật hiện hành đang tính mức khởi điểm chịu thuế bằng 6 lần lương tối thiểu khu vực hành chính sự nghiệp, gấp 2,5 lần mức GDP bình quân .

Áp dụng các tỷ lệ trên, căn cứ mức tăng lương tối thiểu thì mức khởi điểm chịu thuế trên 4 triệu đồng/tháng hiện hành sẽ tăng lên thành 9,9 triệu đồng/tháng vào năm 2014.

Nếu tính căn cứ vào GDP bình quân theo đầu người dự kiến 1.811-1.843 USD/năm/người vào năm 2014 thì mức khởi điểm chịu thuế đến năm 2014 sẽ tăng lên 8,9-9,1 triệu đồng/tháng.

Lại tiếp tục giữ nguyên biểu thuế 7 bậc

Ngoài ra, dự thảo mới nhất của Bộ Tài chính đã quyết định không sửa Biểu thuế lũy tiến từng phần như dự thảo ban đầu.

Theo đó, Bộ Tài chính vẫn giữ nguyên cách tính thuế chia làm 7 bậc như luật hiện hành.

Trong đó, bậc 1 là thu nhập chịu thuế đến 5 triệu đồng/tháng có mức thuế 5%. Bậc 2 có thu nhập từ 5-10 triệu đồng/tháng nộp thuế 10%, bậc 3 thu nhập từ 10-18 triệu nộp thuế suất 15%, bậc 4 thu nhập từ 18-32 triệu đồng/tháng nộp thuế suất 20%, bậc 5 có thu nhập từ 32- 52 triệu đồng/tháng nộp thuế suất 25%, bậc 6 có thu nhập từ 52-80 triệu đồng/tháng thì nộp thuế suất 30%.

Bậc 7, thu nhập chịu thuế từ 80 triệu đồng/tháng trở lên sẽ phải nộp thuế suất 35%.

Biểu Thuế Thu nhập cá nhân hiện hành

Bậc thuế

Phần thu nhập tính thuế/tháng
(trđ)
Thuế suất (%)
1

Đến 5
5
2

Trên 5 đến 10
10
3

Trên 10 đến 18
15
4

Trên 18 đến 32
20
5

Trên 32 đến 52
25
6

Trên 52 đến 80
30
7

Trên 80
35

Trong khi trước đó, dự thảo ban đầu đã đưa ra phương án giảm biểu thuế lũy tiến xuống 6 bậc và bỏ thuế suất 35%. Trong đó, bậc 6 là giới hạn thu nhập chịu thuế từ 52 triệu trở lên nộp thuế suất 30%.

Lý giải của Bộ Tài chính khi đó cho rằng, thuế suất 35% là quá cao, không khuyến khích người có trình độ kỹ thuật cao, năng lực điều hành giỏi ra sức lao động và sẽ khó thu hút các nhà quản lý, nhà khoa học, nhân lực, lao động có tay nghề cao ở nước ngoài vào Việt Nam làm việc. Hơn nữa, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng đang có lộ trình giảm dần, từ mức 25% hiện nay xuống 22-23% vào năm 2015 và 20% vào năm 2020. Do vậy, bỏ thuế suất 35% thuế thu nhập cá nhân là nhằm tương ứng với Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.

Tuy nhiên, các ý kiến phản biện từ Hiệp hội Tư vấn Thuế cho rằng, để khuyến khích người dân nộp thuế thì cần hạ mức thuế suất bậc 1 xuống còn 2-3% thay vì 5%. Ngoài ra, khoảng cách thu nhập giữa các bậ thuế cần giãn ra như bậc 1 có thể từ 0-15 triệu đồng/tháng thay vì chỉ 5 triệu đồng/tháng như hiện nay.

Theo Phạm Huyền 
Vietnamnet

Nhãn: ,

Thu nhập dưới 9 triệu đồng được miễn thuế hết năm 2012

08:27 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /

Quốc hội chiều nay đồng ý miễn thuế thu nhập cá nhân trong vòng 6 tháng cho người đang nộp thuế ở bậc một. Đề xuất miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế khoán cũng được thông qua.

Đây là 2 quyết sách quan trọng nằm trong Nghị quyết về một số chính sách thuế tháo gỡ khó khăn cho tổ chức và cá nhân được Quốc hội thông qua với tỷ lệ ủng hộ 95,79%, trong phiên bế mạc kỳ họp thứ III chiều 21/6.

Theo đó, các cá nhân có thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công và từ kinh doanh đến mức phải chịu thuế thu nhập cá nhân ở bậc 1 (có thu nhập tính thuế đến 5 triệu, chiếm khoảng 73% số người đang nộp thuế hiện nay) sẽ được miễn trong vòng 6 tháng cuối năm. Điều đó cũng có nghĩa, các cá nhân không có người phụ thuộc sẽ được miễn thuế từ tháng 7 đến hết năm nếu thu nhập của họ dưới 9 triệu đồng. Nếu có người phụ thuộc, ngưỡng chịu thuế cũng sẽ tính thêm phần giảm trừ gia cảnh.

Số người có thu nhập chịu thuế ở bậc 1 đang chiếm 73% nhưng phần thuế thu được chỉ chiếm tỷ trọng 10,06%.

Ngoài ra, nghị quyết Quốc hội cũng cho giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2012 với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (không bao gồm doanh nghiệp kinh doanh xổ số, bất động sản, chứng khoán, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, sản xuất hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, doanh nghiệp được xếp hạng 1, hạng đặc biệt thuộc tập đoàn kinh tế, tổng công ty).

Việc miễn thuế này cũng dự kiến được áp dụng với các đơn vị sử dụng nhiều lao động (sản xuất, gia công, chế biến: nông sản, lâm sản, thủy sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử, xây dựng công trình hạ tầng kinh tế - xã hội).

Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau của đại biểu xung quanh khả năng tác động, tính công bằng… nhưng dự thảo nghị quyết vẫn đề cập đến việc miễn thuế khoán (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân) và thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2012 đối với hộ, cá nhân kinh doanh nhà trọ, phòng trọ cho công nhân, người lao động, sinh viên, học sinh thuê, hộ - cá nhân giữ trẻ, cung ứng suất ăn ca… Điều kiện kèm theo đối với các hộ - cá nhân này là phải giữ ổn định giá dịch vụ trong năm 2012.

Cùng với Nghị quyết 13 của Chính phủ trước đó, văn bản lần này của Quốc hội được xem là bước đi tích cực của cơ quan quản lý trong việc tháo gỡ khó khăn cho sản xuất – kinh doanh. Theo nghị quyết của Chính phủ, các giải pháp về thuế cũng được chú ý khi cơ quan hành pháp cho phép gia hạn 6 tháng thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng (VAT) quý II/2012 đối với doanh nghiệp nhỏ - vừa và doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động.

Các giải pháp thuế được kỳ vọng sẽ hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động vượt qua khó khăn hiện nay. Ảnh minh họa: Hoàng Hà

Chính phủ cũng gia hạn 9 tháng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp từ năm 2011 trở về trước mà chưa nộp vào Ngân sách của các đối tượng doanh nghiệp nêu trên, đồng thời giảm 50% tiền thuê đất của năm 2012 đối với tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Các chủ đầu tư dự án đang có khó khăn về tài chính cũng được gia hạn nộp tiền sử dụng đất tối đa 12 tháng…

Đề xuất miễn 6 tháng thuế thu nhập cá nhân bậc một không có trong tờ trình ban đầu của Chính phủ. Tuy nhiên, sau nhiều góp ý của các đại biểu Quốc hội, quyết sách này đã được đưa vào nghị quyết và được Quốc hội thông qua. Theo báo cáo giải trình tiếp thu dự thảo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thăm dò bằng văn bản trước phiên biểu quyết đối với trên 360 đại biểu, tỷ lệ đồng ý với quyết định này là 85%, trong khi chỉ có khi chỉ có 55 đại biểu chưa thống nhất.

Do vậy, Quốc hội đã quyết định đưa ra chủ trương này với 3 lý do là kích thích tiêu dùng (do lương tối thiểu hiện vẫn được đánh giá là thấp so với mặt bằng giá cả), thể hiện sự quan tâm, động viên của Nhà nước. Đồng thời, hiện số người nộp thuế bậc một chiếm hơn 70% nhưng chỉ đóng góp khoảng 10% vào nguồn thu. Do vậy, việc miễn thuế cho đối tượng này chỉ làm giảm thu ngân sách khoảng 1.900 – 2.000 tỷ đồng, không tác động lớn đến cân đối chi tiêu.

Việc miễn thuế thu nhập cá nhân từng được áp dụng trong 6 tháng đầu năm 2009 để đối phó với những khó khăn của suy giảm kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, quy mô đợt miễn giảm lớn hơn so với hiện nay (thực hiện đối với tất cả các bậc thuế). Tổng số tiền được miễn tại thời điểm đó, theo tổng kết của Bộ Tài chính, lên tới gần 5.500 tỷ đồng.

Tại kỳ họp lần này, một số ý kiến đại biểu cũng đề xuất giảm 50% thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với một số hàng hóa, dịch vụ nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm giá bán. Tuy nhiên, theo Thường vụ Quốc hội, việc giảm thuế này không đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ giảm giá, trong khi ngân sách chưa có nguồn bù đắp. Do vậy, nội dung giảm VAT chưa được đưa vào nghị quyết lần này.

Biểu thuế thu nhập cá nhân hiện hành

Nhật Minh

Nhãn:

Từ tháng 5/2013, lao động nữ được nghỉ thai sản 6 tháng

09:56 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /


Chiều 18/6, Quốc hội họp toàn thể tại hội trường để biểu quyết thông qua 4 Luật, 1 Bộ luật. Trong đó, Bộ luật Lao động sửa đổi được nhiều người quan tâm với những quy định tiến bộ về tuổi nghỉ hưu, mức lương tối thiểu, chế độ nghỉ thai sản, tiền làm thêm giờ và số giờ làm thêm của người lao động…

Theo đó, tiền lương làm thêm giờ của người lao động không quá 50% số giờ làm việc chính thức trong 1 ngày, trong trường hợp áp dụng quy định làm việc theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 1 ngày; không quá 30 giờ trong 1 tháng và tổng số không quá 200 giờ trong 1 năm, trừ một số trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định thì được làm thêm giờ không quá 300 giờ trong 1 năm.

Về một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm là thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ, Luật quy định lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con 6 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 2 trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 1 tháng. Thời gian nghỉ trước khi sinh tối đa không quá 2 tháng.

Lao động nữ nghỉ sinh con trước ngày Bộ luật này có hiệu lực, mà đến ngày 1/5/2013 vẫn đang trong thời gian nghỉ sinh con theo quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 ngày 29/6/2006 thì thời gian nghỉ thai sản được thực hiện theo quy định của Bộ luật này.

Về quy định tuổi nghỉ hưu, Quốc hội vẫn giữ nguyên độ tuổi là 55 với nữ và 60 tuổi với nam như quy định hiện hành. Theo đó, người lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi.

Với người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm các công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thuộc danh mục do Chính phủ quy định có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn so với quy định trên đây.

Người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, người lao động làm công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 5 năm so với quy định trên đây.

Một số ý kiến đề nghị cần xây dựng lộ trình tăng dần tuổi nghỉ hưu của cả lao động nam và nữ, đồng thời tính toán đầy đủ hơn các yếu tố liên quan đến vấn đề cân bằng Quỹ Bảo hiểm xã hội trong tương lai. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu ý kiến này và đề nghị Chính phủ giao cho các cơ quan chức năng tiếp tục nghiên cứu, đề xuất Quốc hội điều chỉnh tuổi nghỉ hưu khi có đủ điều kiện.

Bộ Luật lao động sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/5/2013.

Cũng trong chiều 18/6, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Bảo hiểm tiền gửi, Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá, Luật Phòng, chống rửa tiền, Luật Giáo dục đại học.

Theo Lê Sơn
Chinhphu.vn

Nhãn:

Tiền SDĐ ngoài hạn mức tại TP.HCM: Cao và thiếu công bằng

09:57 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /



Dự thảo mới nhất về thu tiền sử dụng đất (SDĐ) ngoài hạn mức tại TP.HCM đề xuất hệ số tối đa lên đến 4,5 lần bảng giá đất áp dụng đối với trường hợp chuyển mục đích SDĐ. Hệ số này được đánh giá là quá cao.


Phân biệt đối xử
 

Theo đề xuất của liên sở do Sở Tài chính chủ trì, địa bàn TP.HCM sẽ áp dụng đến 4 hệ số điều chỉnh tiền SDĐ cho phần diện tích đất ở vượt hạn mức của hộ gia đình, cá nhân. Với trường hợp công nhận quyền SDĐ (cấp giấy chủ quyền), toàn bộ phần vượt hạn mức ở sẽ nộp tiền SDĐ theo hệ số K = 2 lần bảng giá đất. Riêng trường hợp chuyển mục đích SDĐ, liên sở đề xuất 3 hệ số K tương ứng với 3 khu vực và đều ở mức cao. Trong đó, khu vực 1 (gồm các quận 1, 3, 4, 5, 10, 11, Phú Nhuận, Tân Bình) có hệ số K = 4,5. Khu vực 2 (gồm các quận 2, 6, 7, 8, 9, 12, Bình Thạnh, Tân Phú, Gò Vấp, Bình Tân) hệ số = 4. Khu vực 3 gồm các huyện còn lại có hệ số K = 3,5.

Theo lý giải của liên sở, các hệ số K như trên đã phản ánh tương đối chính xác tỷ lệ chênh lệch giữa giá thị trường và giá đất do TP ban hành. Các sở, ngành đã căn cứ trên 3 nguồn thông tin về giá chuyển nhượng thực tế để xác định hệ số K của từng quận, huyện. Đó là thông tin của các đơn vị tư vấn khi lập bảng giá đất năm 2008; thông tin về giá đất ở trên thị trường đã được TP phê duyệt khi nhà nước thu hồi đất và duyệt bán nhà thuộc sở hữu nhà nước theo cơ chế hai giá vào các năm 2010, 2011, 2012; thông tin do Sở Tài chính thu nhập vào năm 2012 qua báo chí, sàn giao dịch và khảo sát thực tế. Đối với trường hợp chung một tuyến đường giáp ranh giữa 2 quận, huyện nhưng lại có 2 hệ số K khác nhau, dự thảo đề nghị chọn hệ số thấp hơn để tính tiền SDĐ cho người dân.

Luật sư Huỳnh Văn Nông - Đoàn luật sư TP.HCM - nhận xét, quy định hệ số K đối với phần đất vượt hạn mức sẽ tạo thuận tiện hơn so với quy định trước đó là yêu cầu thẩm định sát giá thị trường với từng trường hợp đất ở của dân. Tuy nhiên, yêu cầu trường hợp chuyển mục đích phải đóng tiền SDĐ quá cao so với trường hợp cấp giấy chủ quyền sẽ là một sự phân biệt đối xử, tạo ra tình trạng bất công lớn trên thực tế. Bởi hiện nay các trường hợp được chuyển mục đích từ đất nông nghiệp sang đất ở chủ yếu là các mảnh đất nông nghiệp nằm xen cài trong các khu dân cư. Nếu quy định hệ số K quá chênh lệch, sẽ dẫn đến trong cùng một khu vực, người dân phải đóng tiền SDĐ chênh lệch quá nhiều cho những mảnh đất có giá trị như nhau.

Luật sư Nông dẫn chứng một ví dụ: Một người sở hữu 1.000 m2 đất nông nghiệp từ lâu nhưng không chịu đi làm giấy chứng nhận quyền SDĐ cho đất nông nghiệp, sau đó họ xây nhà trái phép và tiến hành thủ tục hợp thức hóa thì toàn bộ vượt hạn mức chỉ phải đóng gấp 2 lần bảng giá đất. Trong khi đó, người khác chấp hành nghiêm chỉnh quy định (xin cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ cho đất nông nghiệp), nay xin chuyển mục đích SDĐ sang đất ở thì phải nộp gấp từ 3,5 - 4,5 lần bảng giá đất.


Vượt khả năng tài chính của dân

Nếu hệ số 3,5 - 4,5 lần bảng giá đất được thông qua sẽ tạo gánh nặng tài chính rất lớn cho người dân có nhu cầu chuyển mục đích SDĐ. Chẳng hạn, trường hợp của ông Nguyễn Minh Hồng nộp hồ sơ xin chuyển mục đích SDĐ cho khu đất hơn 400 m2 tại đường Dương Bá Trạc (Q.8) nhưng bị ách tắc gần 3 năm qua. Nay với hệ số 4 lần bảng giá đất áp dụng cho khu vực Q.8, dự kiến ông Hồng sẽ phải đóng tiền SDĐ lên đến 14,5 tỉ đồng (trong đó hơn 2 tỉ đồng cho phần đất trong hạn mức và 12,5 tỉ đồng cho phần đất vượt hạn mức). “Nếu bắt đóng tiền SDĐ cao như vậy thì chẳng khác nào nhà nước bắt tôi bỏ tiền mua lại miếng đất ông bà để lại. Như vậy, dù TP có ban hành hệ số K thì tôi cũng không đủ tiền đóng thuế để xin tách thửa cho đứa con trai lấy vợ” - ông Hồng than thở.

Thực tế cho thấy, ngay cả với hệ số gấp đôi bảng giá đất áp dụng cho trường hợp cấp giấy chủ quyền đã được đánh giá là vượt khả năng tài chính của nhiều người dân. Đó là lý do sau khi Quyết định 64 của UBND TP.HCM (về hệ số điều chỉnh tiền SDĐ cho phần vượt hạn mức của hộ gia đình, cá nhân) có hiệu lực vào tháng 10.2011, hầu hết các chi cục thuế vẫn lâm vào cảnh “ế ẩm”, vì nhiều người dân dù đủ điều kiện đóng tiền SDĐ gấp 2 lần bảng giá đất nhưng vẫn không thể hoàn thành nghĩa vụ thuế.

Theo ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM - thực tế bảng giá đất của TP không ngừng tăng qua các năm đồng nghĩa với gánh nặng tiền SDĐ của người dân cũng tăng. Nay nếu ban hành hệ số điều chỉnh quá cao, chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng người dân nợ thuế, hoặc mua bán giấy tay. “Việc thu thuế đối với phần đất ở ngoài hạn mức của người dân không nên kỳ vọng sát giá thị trường một cách tuyệt đối mà cần phải cân nhắc trên cơ sở hợp lý và công bằng. Với các trường hợp người dân đã mua bán, sang nhượng mảnh đất trước đó theo giá thị trường, nay phải đóng tiền SDĐ cũng theo giá thị trường thì chẳng khác nào bắt họ phải mua đất đến 2 lần. Chính sách thuế không nên tận thu mà cần tính tới các yếu tố an sinh xã hội, bởi nếu quy định mức thuế quá cao thì không khuyến khích người dân hợp thức hóa nhà đất, khiến giao dịch đình trệ, dễ nảy sinh tranh chấp và nguy cơ thất thu thuế cũng cao. Quy định thuế hợp lý sẽ có nhiều cái lợi, thị trường được khai thông, nhà cửa được xây dựng đúng phép, giao dịch trôi chảy, thay vì áp thuế cao mà không ai đóng thuế cả” - ông Châu góp ý.

Bộ Tài chính không phân biệt giữa cấp giấy chủ quyền và chuyển mục đích: Hoàn toàn không có cơ sở nào để bóc tách thành 2 trường hợp để yêu cầu người dân đóng 2 mức tiền SDĐ quá chênh nhau như vậy. Ngay cả Thông tư 93 của Bộ Tài chính về hướng dẫn thu tiền SDĐ sát giá thị trường cũng giao TP ban hành hệ số K phù hợp với từng khu vực, chứ không phân biệt trường hợp cấp giấy chủ quyền và chuyển mục đích. Tôi cho rằng việc TP lo ngại tình trạng chuyển mục đích tràn lan, đầu cơ đất nông nghiệp... là không hợp lý. Bởi các cơ quan chức năng nắm đầy đủ các công cụ quản lý quy hoạch trong tay nên không cần đẩy cái khó về phía người dân bằng cách áp hệ số tiền SDĐ cao như vậy. 
Luật sư Huỳnh Văn Nông
Theo Phương Thanh
Thanh Niên

Nhãn:

CẢNH BÁO RỦI RO TRONG GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

10:17 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /

/uploads/articles/2010/07/1280377335-993260.jpg
Ảnh minh họa
Giao dịch bảo đảm là giao dịch dự phòng do các bên chủ thể thỏa thuận để bảo đảm lợi ích của bên có quyền bằng cách cho phép bên có quyền được xử lý những tài sản thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ để khấu trừ giá trị nghĩa vụ trong trường hợp nghĩa vụ đó bị vi phạm.
 
Trong 07 biện pháp bảo đảm (theo Đ318 của Bộ luật Dân sự 2005) gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký quỹ, ký cược, bảo lãnh, tín chấp thì biện pháp thế chấp tài sản được tôn vinh là “nữ hoàng” của các biện pháp bảo đảm (BPBĐ). Khoản 1, Điều 432 BLDS 2005 quy định: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp”. Thế chấp tài sản được lựa chọn làm BPBĐ của hầu hết các giao dịch dân sự, đặc biệt là trong các quan hệ tín dụng. Nếu như trong BPBĐ cầm cố tài sản, bên có nghĩa vụ phải “giao tài sản” cho bên có quyền thì trong quan hệ thế chấp, bên bảo đảm chỉ “dùng tài sản để bảo đảm” mà “không chuyển giao tài sản đó” cho bên có quyền. Dùng tài sản để bảo đảm mà không phải chuyển giao mà lợi ích của các bên trong quan hệ vẫn đạt được là 1 giải pháp tuyệt vời hữu hiệu chỉ có ở biện pháp thế chấp tài sản. Tài sản bảo đảm được coi là phao cứu sinh của hoạt động ngân hàng, bảo đảm ngân hàng có thể thu hồi ít nhất là vốn gốc khi rủi ro khách hàng không trả được nợ xảy ra. Phần lớn tài sản bảo đảm của ngân hàng là quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất (sau đây gọi tắt là nhà đất). Tuy nhiên, thực tế hoạt động ngân hàng cho thấy, có muôn ngàn lý do làm cho quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất, vốn là tài sản bảo đảm trở thành không bảo đảm, khiến khoản nợ xấu của ngân hàng tăng vọt trong thời gian gần đây. Để phòng ngừa và góp phần làm giảm bớt các rủi ro, nợ xấu của ngân hàng, tác giả tập trung trình bày 04 vấn đề cơ bản khi thẩm định hồ sơ pháp lý của giao dịch bảo đảm bằng biện pháp thế chấp tài sản.

Vấn đề thứ nhất: Thẩm định về nhân thân của người tham gia ký kết hợp đồng thế chấp tài sản.
1. Cảnh báo về việc xác định chính xác nhân thân của người tham gia giao kết hợp đồng

Vấn đề tưởng là đơn giản nhưng trong thực tế lại rất phức tạp vì đã có trường hợp do cán bộ ngân hàng, công chứng viên không làm hết trách nhiệm đã công chứng hợp đồng có chữ ký giả, bị đánh tráo người ký hợp đồng thế chấp do người yêu cầu công chứng không có chứng minh thư (chỉ có đơn xác nhận mất giấy tờ, đơn xin cấp chứng minh thư có xác nhận của công an xã, phường); dùng chứng minh thư photo; chứng minh thư bị sửa; chứng minh thư giả; người giống trong ảnh của chứng minh thư để thay thế người đã chết thậm chí thay thế cả người đang còn sống; dùng hợp đồng ủy quyền giả để ký hợp đồng. Trong thực tế đã có vụ án lừa đảo đau lòng xảy ra tại một Phòng Công chứng của Hà Nội, công chứng viên đã bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên 3 năm tù vì tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (vì chấp nhận cho người có chứng minh thư phô tô ký hợp đồng thế chấp và gây hậu quả nghiêm trọng).

2. Cảnh báo về việc xác định người ký kết hợp đồng có đủ năng lực hành vi dân sự

Trong thực tế, có trường hợp công chứng viên đã cho cả người vừa mới chết lăn tay điểm chỉ vào hợp đồng hoặc cho cả người đang còn sống khỏe mạnh nhưng “mồm ăn lá, chân đá ống bơ, suốt ngày làm thơ” hoặc “Anh cười một mình rồi bỗng cất tiếng hát vang” (chỉ những người có dấu hiệu của bệnh thần kinh) cũng lăn tay, điểm chỉ vào hợp đồng. Công chứng viên càng khó xác định năng lực hành vi dân sự hơn đối với những người bị tâm thần phân liệt, có lúc bình thường và có lúc bị bệnh.

3. Cảnh báo về việc xác định người ký kết hợp đồng có đủ thẩm quyền hay không ?

Trong trường hợp ký kết hợp đồng thế chấp giữa 02 pháp nhân thì mỗi bên chỉ cần một người đại diện ký hợp đồng. Đối với ngân hàng, ít khi người đại diện theo pháp luật ký hợp đồng, mà thường do người được uỷ quyền ký, trong đó không ít trường hợp uỷ quyền cho người thứ ba một cách thường xuyên, liên tục. Phổ biến là trường hợp, người đại diện pháp luật của ngân hàng uỷ quyền cho giám đốc chi nhánh, sau đó giám đốc chi nhánh uỷ quyền lại cho phó giám đốc hoặc trưởng phòng. Ngược lại, để phòng ngừa rủi ro, ngân hàng nên chấp nhận cho bên vay là doanh nghiệp uỷ quyền một cấp cho người thứ hai và thường là có vị trí ngay dưới người uỷ quyền ký hợp đồng.

Việc đòi hỏi như trên của ngân hàng là chặt hơn đòi hỏi của pháp luật, nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trên thực tế, nhằm hạn chế rủi ro về chủ thể ký hợp đồng, giúp cho hợp đồng thế chấp an toàn và dễ dàng hơn trong việc thu hồi nợ.

Đối với bên thế chấp là doanh nghiệp, thì đòi hỏi phải có sự thông qua của Hội đồng Thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty hoặc HĐQT đối với các trường hợp giá trị tài sản bảo đảm đạt đến một mức nhất định như: “bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty” (Điều 47, 64 và 108 Luật Doanh nghiệp).

Phải chọn người đại diện hợp pháp để ký hợp đồng
Tại Khoản 5, Điều 144 của Bộ Luật dân sự đã quy định về phạm vi đại diện: “Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”.

Theo đó, giao dịch theo những trường hợp sau là những giao dịch vi phạm pháp luật:

- A đại diện cho cá nhân hoặc/và tổ chức để ký hợp đồng với chính A;

- A đại diện cho cá nhân hoặc/và tổ chức để ký hợp đồng với A là đại diện cho cá nhân hoặc/và tổ chức.

4. Cảnh báo về 07 khả năng rủi ro khi ký hợp đồng với người được ủy quyền thế chấp tài sản

Trong thực tế, nhiều trường hợp mua bán tài sản được “ngụy trang” dưới hợp đồng ủy quyền cho người được ủy quyền có đầy đủ quyền sở hữu: sử dụng, chiếm hữu, định đoạt. Khi một người được ủy quyền sở hữu nói chung và được ủy quyền thế chấp tài sản để vay vốn tại ngân hàng nói riêng thì sẽ có 07 khả năng rủi ro có thể xảy ra:

- Rủi ro thứ nhất: Khi giá bất động sản tăng lên như tên lửa Triều Tiên hoặc đóng băng, xuống thấp như chứng khoán Việt Nam, một bên vẫn có thể yêu cầu tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng ủy quyền trên cơ sở hợp đồng này được xác lập nhằm che giấu giao dịch mua bán bất động sản, vốn là giao dịch thuộc ý chí đích thực của các bên.

- Rủi ro thứ hai: Theo Điều 589 BLDS, hợp đồng ủy quyền sẽ bị chấm dứt đương nhiên (dù các bên có thỏa thuận khác) trong trường hợp: “bên ủy quyền hoặc bên được ủy quyền chết, bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết”. Như vậy, nếu nhận thế chấp trong trường hợp này thì sẽ dẫn đến rủi ro rất cao cho ngân hàng, hợp đồng ủy quyền chấm dứt (do chủ sở hữu, chủ sử dụng tài sản thế chấp chết) kéo theo hợp đồng thế chấp không còn giá trị pháp lý. Hoặc chủ sở hữu, chủ sử dụng tài sản đã chết, mà người nhận ủy quyền vẫn sử dụng hợp đồng ủy quyền để xác lập giao dịch thế chấp thì lúc này hợp đồng thế chấp sẽ vô hiệu hoàn toàn.

- Rủi ro thứ ba: Bên ủy quyền hoặc bên được ủy quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng theo Điều 588 BLDS; đối với hệ thống quản lý công chứng hiện nay thì ngân hàng không thể biết được việc một bên đã đơn phương chấm dứt hợp đồng và cứ thế giao kết hợp đồng thế chấp với người nhận ủy quyền (với tư cách là người đại diện theo ủy quyền) thì lúc này sẽ phát sinh tranh chấp và nguy cơ quan hệ thế chấp bị vô hiệu rất cao.

- Rủi ro thứ tư: khi bên ủy quyền có nghĩa vụ với một bên thứ ba, ví dụ nợ đối tác, cơ quan thuế hay ngân hàng thì theo quy định của Luật Tố tụng dân sự, quản lý thuế, thi hành án... các chủ nợ này có quyền yêu cầu phong tỏa, kê biên và phát mãi các tài sản của bên ủy quyền, bao gồm cả bất động sản đã “chuyển nhượng” theo hợp đồng ủy quyền. Trừ khi đã được chuyển giao hợp lệ cho bên thứ ba, về mặt pháp lý bất động sản vẫn thuộc quyền sở hữu của bên ủy quyền. Bên được ủy quyền về bản chất chỉ là đại diện cho chủ sở hữu nên các chủ nợ vẫn có nguyên quyền yêu cầu kê biên và/hoặc phát mãi bất động sản để thanh toán cho khoản nợ với mình.

- Rủi ro thứ năm: trên thực tế, người ủy quyền khi ký hợp đồng ủy quyền vẫn là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản nhưng do vi phạm pháp luật nên cơ quan tố tụng đã xác định tài sản này là tang vật của vụ án hoặc là tài sản do phạm tội mà có…nếu ngân hàng cần xử lý tài sản này thì sẽ bị cơ quan tố tụng “toét còi” và nợ xấu… lại trở về với nợ xấu.

- Rủi ro thứ sáu: trên thực tế, khi có nhu cầu vay vốn, bên được ủy quyền mang bất động sản thế chấp cho ngân hàng thì một số ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng nước ngoài, từ chối việc nhận thế chấp vì các ngân hàng hiểu rõ bản chất và ngần ngại về hệ lụy của giao dịch mua bán - ủy quyền này.

- Rủi ro thứ bảy: còn có một số trường hợp khác mà nếu bên ủy quyền hoặc/và bên được ủy quyền bội tín thì mỗi bên vẫn có thể sử dụng những kỹ thuật nhất định trong việc vận dụng hợp đồng và quy định của pháp luật để tước đi một cách hợp pháp quyền lợi của bên kia. Ví dụ: có vụ việc xảy ra khi ký Hợp đồng ủy quyền xong (giao dịch thực chất là mua bán), một thời gian sau, bên ủy quyền có văn bản đề nghị ngân hàng A không nhận thế chấp quyền sử dụng đất của bên được ủy quyền… và tranh chấp xảy ra.

Theo đó, khi ngân hàng gặp phải 01 trong 07 rủi ro trên thì hợp đồng ủy quyền thế chấp tài sản bị vô hiệu và nợ xấu… vẫn chồng nợ xấu.

Vấn đề thứ hai: Thẩm định về tài sản bảo đảm

Thực tế, quy trình cho vay của các ngân hàng được xây dựng khá chặt chẽ và hạn chế hầu hết rủi ro. Vấn đề là rủi ro xảy ra thường do quy trình bị bỏ sót hoặc do nhân viên non kém nghiệp vụ không thẩm định, tìm hiểu kỹ lưỡng. Khó khăn và nguy hiểm nhất là rủi ro do đạo đức của cán bộ, nhân viên ngân hàng. Để góp phần tăng cường nhận thức về khoa học pháp lý trong thẩm định hồ sơ giao dịch bảo đảm, phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục, xử lý các rủi ro xảy ra, tác giả xin nêu một số trường hợp cần cảnh báo qua công tác thanh tra trên phạm vi toàn quốc như sau:

1. Cảnh báo tài sản bảo đảm ảo hoặc có tài sản thật nhưng không được định giá đúng

Qua thanh tra các hồ sơ công chứng tại Phòng Công chứng tỉnh C có ngân hàng cho vay và nhận thế chấp nhà đất, để cho "tiện", nhân viên ngân hàng và công chứng viên đã đồng ý ký hợp đồng thế chấp tại trụ sở ngân hàng và để khách hàng tự mang đi làm hộ thủ tục công chứng hợp đồng và đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Khi khách hàng trả hồ sơ thì thấy đều hợp lệ nên ngân hàng tiến hành giải ngân. Đến khi khách hàng không trả được nợ, ngân hàng đi kiểm tra mới phát hiện ra tại địa chỉ đó không có nhà và cũng không có giấy tờ nhà đất. Hóa ra, khách hàng đã làm giả giấy tờ, hồ sơ để vay được tiền. Những trường hợp giấy tờ giả khá phổ biến trong hệ thống ngân hàng, có trường hợp làm giả toàn phần, có trường hợp sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm từ phôi thật để giả con dấu và chữ ký, hoặc có trường hợp phôi thật, con dấu thật nhưng chữ ký giả nên rất khó nhận biết. Trong khi đó cán bộ ngân hàng và ngay cả Công chứng viên cũng không hề được đào tạo về nghiệp vụ nhận biết, phân biệt giấy tờ giả nên bằng mắt thường thật sự rất khó để nhận biết đâu là “sổ đỏ” giả đâu là “sổ đỏ” thật.

Trong nhiều trường hợp, ngân hàng mất tiền vì không thực hiện đầy đủ thủ tục liên quan đến tài sản thế chấp, không định giá chính xác tài sản bảo đảm. Chẳng hạn, Tài sản bảo đảm của khách hàng có giá trị thật là 5 tỷ nhưng khi định giá, Ngân hàng A đã định giá thành 10 tỷ để cho khách hàng vay số tiền cao hơn giá trị thật của tài sản bảo đảm, khi khách hàng không trả được nợ, ngân hàng mang xử lý tài sản bảo đảm mới “ngã ngửa ra” là giá trị thật của tài sản bảo đảm thấp hơn nhiều khoản cho vay. Trường hợp này xảy ra thường xuyên hơn với các ngân hàng nhỏ, khi mà cán bộ ngân hàng hoặc hỗ trợ tín dụng chỉ định giá tài sản bằng cách tham khảo giá bán, chuyển nhượng nhà ở, đất ở của khu vực có tài sản thế chấp thông qua internet mà không trực tiếp đến kiểm tra, thẩm định hiện trạng nhà, đất – giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử dụng.

Thực tế cho thấy, có nhiều ngân hàng bỏ qua việc lập hợp đồng thế chấp, công chứng hợp đồng khi cho vay ngắn hạn 1 - 2 tuần, nhưng lại cầm luôn "sổ đỏ" của khách hàng để gây áp lực trả nợ. Tuy nhiên, khi khách hàng không trả được nợ, ngân hàng đã phải giao trả sổ đỏ, bởi theo quy định pháp luật không có hợp đồng thế chấp nghĩa là không có biện pháp bảo đảm cho hợp đồng vay vốn.

Như vậy, nhà đất tưởng là tài sản cố định, không thể di dời, không mất đi đâu được thì rất là bảo đảm và có giá trị, nhưng đã dễ dàng trở thành không bảo đảm. Chưa kể, có ngân hàng làm thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp, nhưng lại không đăng ký giao dịch bảo đảm kịp thời hạn, thậm chí không thực hiện việc đăng ký giao dịch đảm bảo dẫn đến khách hàng đi đăng ký thế chấp cho một giao dịch trước đó và ngân hàng trở nên mất quyền ưu tiên khi xử lý tài sản thế chấp, tức là gần như cũng mất luôn tài sản bảo đảm.

Giải pháp: Hợp đồng thế chấp phải được công chứng và cán bộ ngân hàng, công chứng viên cần yêu cầu người có tài sản bảo đảm là nhà đất phải có giấy xác nhận của UBND phường, xã về tình trạng nhà đất đang sử dụng ổn định, không có tranh chấp, không bị kê biên để bảo đảm thi hành án.

2. Cảnh báo tài sản bảo đảm bị rủi ro do biến cố khách quan
Cách đây vài năm, một ngân hàng TMCP lâm vào tình huống dở khóc dở cười khi tài sản bảo đảm của một khoản vay là nhà đất trôi tuột theo một vụ sạt lở đất. Ngân hàng chỉ còn cách chấp nhận mất khoản vay đó, bởi "con nợ" không có khả năng trả nợ, mà tài sản bảo đảm nay đã biến mất. Tương tự, các vụ sạt lở đất tại Thanh Đa (quận Bình Thạnh, TP. HCM) đã chôn vùi vào lòng sông hàng chục căn hộ và cũng cuốn theo khối tài sản không nhỏ của ngân hàng được dùng để thế chấp. Đây là một phần rủi ro liên quan đến tài sản bảo đảm của ngân hàng, mà nguyên nhân chủ yếu là yếu tố khách quan, đến từ bên ngoài, là trường hợp bất khả kháng theo luật định và ngân hàng rất khó kiểm soát.

Giải pháp: Trong trường hợp có yếu tố tự nhiên bất lợi với tài sản bảo đảm thì ngân hàng nên yêu cầu khách hàng phải mua bảo hiểm cho tài sản bảo đảm.

3. Cảnh báo rủi ro đến từ chính sách, pháp luật
Chẳng hạn như hiện tại, nhà và đất được quản lý riêng, nhà do Bộ Xây dựng quản lý theo Luật Nhà ở, đất do Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý theo Luật Đất đai. Từ năm 2003, Luật Đất đai có hiệu lực, song Luật Nhà ở đến ngày 1/7/2006 mới có hiệu lực. Điều này dẫn đến trường hợp có ngân hàng cho vay, tài sản thế chấp là 360 m2 đất ở khu vực khá đắt đỏ của Hà Nội của một bên thứ ba. Sau một thời gian, bên thế chấp xây một biệt thự trên đất đó. Khi khách hàng không có khả năng trả nợ, ngân hàng muốn xử lý tài sản thế chấp nhưng không được, bởi hợp đồng thế chấp chỉ có tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở vẫn thuộc quyền sở hữu của bên thứ ba và bên này không thế chấp nhà hay tài sản gắn liền với đất. Không có cách nào để "bê" biệt thự đi nơi khác, ngân hàng đành làm "ngơ' đối với khoản vay nói trên. Đáng nói là, đến nay vẫn còn ngân hàng chưa nhận thức được rủi ro này để đưa những điều khoản về nhận cả tài sản hình thành trên đất trong tương lai vào hợp đồng.

Có trường hợp khách hàng chỉ thế chấp nhà mà không thế chấp đất và hậu quả là ngân hàng lâm tình huống tiến thoái lưỡng nan, khi mà tài sản bảo đảm tuy có và ngân hàng có toàn quyền xử lý, nhưng chỉ có điều ngân hàng không cách nào xử lý được. Bởi lẽ, tài sản bảo đảm là khung nhà xưởng của một doanh nghiệp và ngân hàng không cách nào bán được, do không có ai mua. Thậm chí, ngân hàng còn bị khu công nghiệp giục đến lấy nhà xưởng về để trả đất thuê cho khu công nghiệp. Chẳng biết mang nhà xưởng về để đâu, ngân hàng đành coi như mất.

Có trường hợp khi bắt đầu ký hợp đồng thế chấp thì nhà đất (tài sản bảo đảm) còn nguyên vẹn nhưng do thay đổi quy hoạch, do có quyết định thu hồi đất, giải tỏa mặt bằng của cơ quan có thẩm quyền thì tài sản bảo đảm bỗng nhiên “bốc hơi”, trong thời gian ngắn giao dịch có bảo đảm đã trở thành không bảo đảm, khiến ngân hàng “ngẩn ngơ sầu”.

Vấn đề thứ ba: Xác định tài sản bảo đảm là tài sản chung hay tài sản riêng
1. Cảnh báo khả năng rủi ro khi ký hợp đồng thế chấp tài sản không đủ căn cứ xác lập quyền tài sản chung hoặc riêng của vợ chồng

Tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định: “…c.1. Người đang có vợ hoặc có chồng là:

- Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn;

- Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn;

- Người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn (trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến trước ngày 01/01/2003).
”.

Theo đó, khi có người đi một mình đến ký hợp đồng thì buộc phải có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của UBND xã, phường để đề phòng trường hợp hôn nhân thực tế nêu trên.

Trong thực tế lại có nhiều trường hợp người có tài sản bảo đảm lại sống ở nhiều nơi, nhiều quãng thời gian khác nhau, rất khó xác định tình trạng hôn nhân của người đó. Đối với trường hợp này, có nhiều tổ chức hành nghề công chứng và ngân hàng lại căn cứ vào Công văn số 2488/BTP-HCTP ngày 26/6/2006 V/v thực hiện Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch” để xác nhận tình trạng hôn nhân của những người đã cư trú tại nhiều địa phương khác nhau (kể cả cư trú ở nước ngoài). Nội dung Công văn này đã quy định: “Trong trường hợp một người đã qua nhiều nơi cư trú khác nhau (kể cả thời gian cư trú ở nước ngoài), thì khi đăng ký kết hôn, ngoài việc xác nhận tình trạng hôn nhân của nơi cư trú hiện tại, đương sự phải viết tờ cam kết (không có mẫu riêng) và chịu trách nhiệm về cam kết của mình về tình trạng hôn nhân trong thời gian trước đó.”. Theo quan điểm của tác giả thì nội dung này chỉ áp dụng cho việc làm thủ tục kết hôn với người nước ngoài, không có liên quan đến việc chứng minh tài sản là chung hay riêng, có vợ hay có chồng liên quan đến tài sản đang giao dịch. Đối với trường hợp con người có “nhiều tình sử” này ngân hàng cần phải hết sức thận trọng và phải xác minh đến cùng mới cho thế chấp để vay vì đã có nhiều trường hợp chỉ có người chồng đứng ra thế chấp tài sản để vay vốn tại ngân hàng nhưng đến khi ngân hàng xử lý tài sản thế chấp thì “xuất hiện” người vợ đòi lại tài sản chung hợp nhất...cuối cùng nợ xấu ...vẫn là nợ xấu.

Cũng tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP đã quy định: “…3. Tài sản chung của vợ chồng (Điều 27).

a. Khoản 1 Điều 27 đã quy định tài sản chung của vợ chồng và hình thức sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng. "Những thu thập hợp pháp khác" của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số, mà vợ, chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 247, 248, 249, 250, 251 và 252 Bộ luật dân sự... trong thời kỳ hôn nhân:

b. Khoản 2 Điều 27 quy định: "Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng
".

Thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới ghi tên của cả vợ chồng (như: nhà ở, quyền sử dụng đất...), song cũng không phải trong mọi trường hợp. Đối với các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng (như: xe môtô, xe ôtô, tàu, thuyền vận tải...). Mặt khác, Khoản 1 Điều 32 đã quy định cụ thể về tài sản riêng của vợ chồng. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại Khoản 1 Điều 32 (ví dụ: được thừa kế riêng một khoản tiền và dùng khoản tiền này mua cho bản thân một chiếc xe môtô mà không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại Khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng.”.

Qua thanh tra cho thấy tại thành phố ĐN đã áp dụng: trong trường hợp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên một người thì chỉ cần một người ký hợp đồng. Như vậy, khi xảy ra tranh chấp thì ngân hàng sẽ rất khó xử lý tài sản bảo đảm vì người còn lại sẽ khiếu kiện theo như nội dung của Nghị quyết nêu trên (phần có chữ gạch chân), bởi đây là tài sản chung của hai vợ chồng, nhưng chỉ đứng tên một người và chỉ có một người ký.

Theo đó, bên thế chấp tài sản phải chứng minh tài sản là của chung hay của riêng tức là phải chứng minh tình trạng hôn nhân của mình, nếu đã có gia đình thì bắt buộc phải có đủ chữ ký của 02 vợ chồng trong hợp đồng.

Trong trường hợp là tài sản riêng của vợ hoặc chồng thì phải có tài liệu chứng minh (bản di chúc, hợp đồng tặng cho riêng…) hoặc bản cam kết của người còn lại xác nhận tài sản mang ra giao dịch là tài sản riêng.

2.Cảnh báo tài sản bảo đảm là đất cấp cho hộ gia đình nhưng không có đủ thành viên từ 15 tuổi trở lên trong hộ gia đình tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tham gia ký kết hợp đồng thế chấp

Tại Điều 106 của Bộ luật Dân sự 2005 đã quy định về Hộ gia đình: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này.

Tại Điều 108 của Bộ Luật đã quy định về tài sản chung của hộ gia đình:

Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thoả thuận là tài sản chung của hộ.”.

Tại Điều 109 của Bộ Luật đã quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia đình: “1. Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thoả thuận.

2. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.
”.

Theo đó, trong trường hợp tài sản bảo đảm là đất cấp cho hộ gia đình thì cần phải làm rõ danh sách thành viên hộ gia đình có tên trong hộ khẩu tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình để yêu cầu tất cả các thành viên của hộ gia đình từ đủ 15 tuổi trở lên phải ký vào hợp đồng thế chấp.

Trong thực tế, đã có nhiều trường hợp do cán bộ ngân hàng và công chứng viên “để sót” thành viên hộ gia đình không ký vào hợp đồng thế chấp, khi ngân hàng xử lý tài sản thì xuất hiện thành viên này khởi kiện. Kết cục của câu chuyện này tác giả có lẽ không cần phải giải thích thêm.

Một trường hợp rủi ro khác liên quan đến hộ gia đình, đó là cách xác định thành viên trong hộ theo “sổ hộ khẩu” hay theo giấy tờ nào vẫn còn là đề tài tranh cãi trong quá trình thực hiện nghiệp vụ công chứng. Để tạo điều kiện nhanh chóng và thuận lợi thì đa số các công chứng viên – phòng công chứng vẫn sử dụng “sổ hộ khẩu” để xác định số thành viên của hộ. Nhưng nếu, có người chứng minh được họ không có tên trong “sổ hộ khẩu” nhưng là thành viên của hộ theo quy định của Điều 106 BLDS 2005 mà không “được ký hợp đồng thế chấp” thì việc hợp đồng thế chấp bị vô hiệu, rủi ro cho ngân hàng là hoàn toàn có thể xảy ra.

Giải pháp: Đối với những hộ gia đình có sổ hộ khẩu cấp đổi sau thời điểm “sổ đỏ”, khi xác định thành viên của hộ, cán bộ ngân hàng – công chứng viên phải yêu cầu khách hàng có đơn xác nhận của UBND cấp xã vào thời điểm cấp sổ đỏ hộ gồm những ai.

Vấn đề thứ tư: Thẩm định tính hợp pháp của hợp đồng thế chấp

1. Cảnh báo rủi ro đến từ các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ ngân hàng và công chứng viên
- Thực hiện công chứng hợp đồng thế chấp bất động sản ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có một trong số bất động sản mà tổ chức hành nghề công chứng có trụ sở, vi phạm Điều 37 của Luật Công chứng;

- Thực hiện không đúng quy định về công chứng đối với bất động sản đã được thế chấp để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ và hợp đồng thế chấp đã được công chứng mà sau đó được tiếp tục công chứng để thế chấp bảo đảm cho một nghĩa vụ khác (bằng các thủ đoạn lập phụ lục hợp đồng hoặc thông đồng với cán bộ ngân hàng để rút sổ đỏ từ ngân hàng ra...);

- Việc uỷ quyền của cá nhân có thẩm quyền cho người khác thay mặt mình tham gia giao kết trong hợp đồng cầm cố, bảo lãnh, thế chấp cũng không có sự thống nhất: theo Bộ luật Dân sự thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức mới là người có thẩm quyền uỷ quyền nhưng thực tế có một số hồ sơ, cấp phó của cơ quan ngân hàng (Phó Giám đốc ngân hàng - không phải là người đứng đầu cơ quan) ký văn bản uỷ quyền cho cán bộ của mình tiến hành giao dịch.

- Một số trường hợp công chứng hợp đồng thế chấp nhà đất nhưng nhà đất đang có tranh chấp, đang có quyết định thu hồi, thậm chí không có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở vẫn chứng cho thế chấp nhà ở, không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (chỉ có phiếu phân lô đất dãn dân, đất đến bù giải tỏa như ở tỉnh C) vẫn chứng cho thế chấp quyền sử dụng đất (vi phạm Điều 91 của Luật Nhà ở năm 2005 và Điều 106 của Luật Đất đai năm 2003).

- Thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội;

- Thực hiện việc sửa lỗi kỹ thuật văn bản công chứng không đúng quy định: Một số trường hợp việc sửa chữa văn bản công chứng lưu tại tổ chức hành nghề công chứng còn tuỳ tiện (gạch bút chì vào văn bản nhưng không có ký nhận, đóng dấu hoặc tạo lập một tờ đính chính riêng một số nội dung cơ bản của hợp đồng mà chỉ có chữ ký của công chứng viên);

- Có trường hợp một tài sản đem ký hợp đồng thế chấp tại 2 tổ chức hành nghề công chứng khác nhau, một tài sản đem thế chấp, bảo lãnh ở nhiều người, nhiều nơi; người đã chết nhưng vẫn “giao dịch”, công chứng cho người có tài sản đã bị cưỡng chế, kê biên, bán đấu giá thành; ký kết hợp đồng bán đấu giá thành trước khi tổ chức bán đấu giá tài sản dẫn đến tranh chấp khi đã thế chấp tài sản…

- Vì để “trốn” phí và đăng ký giao dịch bảo đảm nên nhiều ngân hàng đã “ép” tổ chức hành nghề công chứng ký phụ lục hợp đồng thay thế cho hợp đồng chính khi khoản vay cũ được bảo đảm đã tất toán xong, tài sản thế chấp tiếp tục sử dụng để bảo đảm cho khoản vay mới. Hậu quả pháp lý là: nếu xảy ra tranh chấp thì những nội dung của phụ lục hợp đồng trái với nội dung cơ bản của hợp đồng chính sẽ bị vô hiệu. Hệ quả là ngân hàng sẽ không xử lý được tài sản thế chấp.

2. Cảnh báo rủi ro khi ký hợp đồng thế chấp quyền sở hữu nhà ở
Tại Điều 91 của Luật Nhà ở đã quy định điều kiện của nhà ở tham gia giao dịch:

1. Trong các giao dịch về mua bán, tặng cho, đổi, thừa kế, thế chấp, cho mượn, cho ở nhờ, uỷ quyền quản lý nhà ở thì nhà ở phải có các điều kiện sau đây:

a) Có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở theo quy định của pháp luật;

b) Không có tranh chấp về quyền sở hữu;

c) Không bị kê biên để thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
”.

Trong thực tế thanh tra ở nhiều địa phương thì trên “Sổ hồng” chỉ ghi diện tích đất sử dụng nhưng không ghi diện tích nhà ở hoặc tài sản gắn liền với đất mà ngân hàng vẫn thẩm định có nhà ở trên đất và xác định giá trị bảo đảm của căn nhà để cho vay. Giao dịch này là vi phạm Điều 91 của Luật Nhà ở và vi phạm Điểm b, Khoản 2, Nghị định 60/2009/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp.

Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng căn cứ vào Điều 320 của Bộ Luật dân sự năm 2005 (BLDS) thì vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là:

… 2. Vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình thành trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết.”.

Tại Điều 342 của BLDS quy định về thế chấp tài sản:

… Tài sản thế chấp cũng có thể là tài sản được hình thành trong tương lai.

Cũng theo quan điểm này thì người có tài sản hình thành trong tương lai có quyền mang ra thế chấp để vay vốn tại ngân hàng và nhà ở đã có giấy phép xây dựng, đã xây xong hoàn thiện nhưng chưa có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà là một loại tài sản hình thành trong tương lai do đó có thể mang ra thế chấp cho ngân hàng để vay vốn. Nhưng theo quan điểm của tác giả thì phải tuân thủ Điều 91 của Luật Nhà ở vì những căn cứ sau:

- Tại Điều 80 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật:

“… 3 - Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật về cùng một vấn đề do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau, thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau.”. Bộ Luật dân sự 2005 được Quốc Hội thông qua ngày 14/6/2005 trong khi đó Luật Nhà ở được Quốc Hội thông qua ngày 29/11/2005, do đó, phải áp dụng Luật Nhà ở.

Sai phạm này đang xảy ra phổ biến, tràn lan do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau:

- Nguyên nhân khách quan: Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quá khó khăn, nhiêu khê. Thêm nữa, cán bộ thực thi lại gây phiền hà, sách nhiễu nên người dân “ngại” đến “cửa quan” để xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà dẫn đến tình trạng có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất nhưng phần ghi quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất bị bỏ trống mặc dù người dân có giấy phép xây dựng, có nhà ở, hiện đang cư trú, không có tranh chấp… có đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.

- Nguyên nhân chủ quan là chính quyền các cấp đã buông lỏng quản lý nhà nước về nhà ở, các cơ quan như công chứng, ngân hàng vẫn “công chứng vô tư” và “giải ngân vô tư” vào các hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, thế chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở mặc dù chưa có xác nhận quyền sở hữu nhà.

Hậu quả pháp lý là nếu xảy ra tranh chấp thì phần tài sản thế chấp là nhà ở sẽ bị vô hiệu vì vi phạm Điều 91 của Luật Nhà ở, ngân hàng sẽ không có cơ sở pháp lý để xử lý tài sản là nhà ở của bên thế chấp.

Giải pháp khắc phục sai phạm trên: Nếu trong giao dịch cứ cứng nhắc nguyên tắc thì với thực trạng hiện tại về cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở sẽ bị đình trệ các giao dịch mặc dù trên thực tế nhà ở của người mang đi thế chấp là có thực. Để giải quyết thực trạng này cần có kiến nghị sửa đổi Luật Nhà ở để khơi thông các giao dịch về nhà ở. Về mặt thể chế, đã có sự “cơi nới, vượt rào” tại Điều 61 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở” đã quy định thế chấp nhà ở như sau:

… 2. Tổ chức, cá nhân mua nhà ở hình thành trong tương lai của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản được quyền thế chấp nhà ở tại tổ chức tín dụng để vay vốn. Thủ tục thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai được thực hiện theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.”. Tuy nhiên, chế định này chỉ là một “khe hẹp trong dòng chảy giao dịch”, chưa đủ đáp ứng nhu cầu thực tiễn.

Theo tác giả, cần vận dụng Điều 1 của Luật Nhà ở 2005:

…Nhà ở theo quy định của Luật này là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân.”. Theo đó, trong các hợp đồng thế chấp ta có thể “vận dụng” câu chữ là chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và căn nhà xây trên đất làm nhà kinh doanh, văn phòng, kho chứa hàng, phòng giao dịch…miễn là không phải để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân. Như vậy sẽ không là đối tượng điều chỉnh của Luật Nhà ở.

3. Cảnh báo rủi ro khi ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất khi chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Tại Điều 106 của Luật Đất đai đã quy định: “Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định tại Khoản 2 Điều 110; Khoản 2 và Khoản 3 Điều 112; các Khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 113; Khoản 2 Điều 115; điểm b Khoản 1, các điểm b, c, d, đ và e Khoản 3 Điều 119; điểm b Khoản 1, điểm b và điểm c Khoản 2 Điều 120 của Luật này khi có các điều kiện sau đây:

a) Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;



Có quan điểm khác cho rằng nội dung này là chưa thực sự phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 146 Luật Đất đai năm 2003, Khoản 1 Điều 53 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo đó, các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đều quy định trong trường hợp có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 thì người sử dụng đất vẫn được thực hiện quyền thế chấp.

Theo tác giả, trong thực tế, nếu không có “Sổ đỏ” mang ra thế chấp thì các ngân hàng sẽ không ký hợp đồng thế chấp vì nếu xảy ra tranh chấp thì Tòa án cũng không có cơ sở pháp lý để thụ lý (vì đất không có “sổ đỏ”).

Theo đó, quyền sử dụng đất chỉ có thể mang ra giao dịch khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, qua thực tế thanh tra, có nhiều trường hợp chỉ có giấy phân lô đất tái định cư đã cho thế chấp vay vốn ngân hàng…do đó, khi xảy ra tranh chấp, ngân hàng không có cơ sở pháp lý để xử lý tài sản thế chấp, thu hồi công nợ.

4. Cảnh báo rủi ro khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Một lời cảnh báo từ cuốn “Sổ hồng”, “Sổ đỏ” là: Ngân hàng không được cho thế chấp trong những trường hợp sau đây:

1. Đất của tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất (Khoản 2, Điều 109, Luật Đất đai);

2. Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã trả có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước (Khoản 3, Điều 110, Luật Đất đai);

3. Đất thuê của Nhà nước trả tiền hằng năm (Điều 111; Điều 114 Luật Đất đai). Tuy nhiên nếu là người thuê lại đất này mà đã trả tiền cho cả thời gian thuê lại đất, đối với đất đã được đầu tư xây dựng xong kết cấu hạ tầng của tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất, để đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng tại khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao thì lại được phép thế chấp quyền sử dụng đất;

4. Trường hợp nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tiền đã trả cho việc nhận chuyển nhượng đó có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước (Khoản 2, Điều 112, Luật Đất đai).

5. Đất đang có tranh chấp (Điểm b, Khoản 1, Điều 106, Luật Đất đai);

6. Quyền sử dụng đất bị kê biên để bảo đảm thi hành án (Điểm c, Khoản 1, Điều 106, Luật Đất đai);

7. Hết thời hạn sử dụng đất (Điểm d, Khoản 1, Điều 106, Luật Đất đai).

5. Cảnh báo rủi ro về tài sản đang trong thời gian bán đấu giá mà được mang ra thế chấp

Trường hợp này đã xảy ra trên thực tế hiện nay. Đó là việc người phải thi hành án bị kê biên, định giá nhà đất, bán đấu giá tài sản để trả nợ cho người được thi hành án. Ngôi nhà này sau đó được mang ra Trung tâm bán đấu giá và được chấp hành viên ký quyết định giải tỏa kê biên. Trong thời gian ngôi nhà được giải biên để thực hiện việc bán đấu giá, chủ sở hữu của ngôi nhà này (người phải thi hành án) đã cầm “Sổ hồng” căn nhà mang ra ngân hàng thế chấp vay 8 tỷ đồng. Sau khi kiểm tra thấy đủ các loại giấy tờ cần thiết và đã đến tận nơi xác minh ngôi nhà là có thực và đã quyết định giải tỏa kê biên, ngân hàng đã ký hợp đồng thế chấp ngôi nhà với người này trước sự chứng kiến của công chứng viên. Mấy ngày sau đó Trung tâm bán đấu giá thông báo đã có người trúng đấu giá ngôi nhà. Khi người trúng đấu giá nộp đủ tiền cho Trung tâm bán đấu giá và Trung tâm bán đấu giá chuyển tiền cho cơ quan thi hành án để trả ngay cho người được thi hành án thì mới “ngã ngửa” khi biết ngôi nhà đã được mang đi thế chấp, còn ngân hàng cũng “ngậm đắng nuốt cay” vì không biết xử lý tài sản đang nhận thế chấp và thu hồi khoản nợ của mình như thế nào.

Giải pháp: Hiện nay, việc “nắm bắt thời cơ” và “chạy tài sản” của các con nợ ngày càng tinh vi và nhanh chóng, vì vậy để tránh gặp rủi ro đáng tiếc như đã nêu ở trên, tác giả đề xuất chấp hành viên khi ra quyết định giải tỏa kê biên cần thêm điều khoản về hiệu lực thi hành của quyết định: “Quyết định này chỉ có hiệu lực thi hành đối với người bán đấu giá và người trúng đấu giá”. Như vậy mới có thể bảo đảm được quyền lợi của các chủ thể nói chung khi tham gia các giao dịch về tài sản và quyền lợi của ngân hàng nói riêng.

Thực tế giao dịch bảo đảm bằng biện pháp thế chấp đang diễn ra rất sôi động và phong phú nhưng nợ xấu của ngân hàng cũng đang gia tăng chóng mặt trong thời gian gần đây. Nguyên nhân sâu xa của nó là khi thẩm định hồ sơ giao dịch bảo đảm, ngân hàng và công chứng viên đã vi phạm những vấn đề tác giả đã trình bày ở trên.

Ranh giới giao dịch bảo đảm và giao dịch không bảo đảm là gì ? Chắc bạn đọc đã phần nào hiểu rõ qua các nội dung nêu trên.
 

Nhãn: