Cần thống nhất phương pháp tính diện tích sàn căn hộ

13:51 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /

Quy định trong tính diện tích sàn căn hộ đối với nhà chung cư hiện vẫn chưa thống nhất trong một số văn bản.

Mới đây, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính - Văn Phòng Chính phủ đã tổ chức tham vấn về quy định tính diện tích sàn trong hợp đồng mua bán nhà chung cư được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành.

Cần thống nhất về phương pháp tính diện tích sàn trong hợp đồng mua bán nhà chung cư. Ảnh: chinhphu.vn

Dự buổi tham vấn có đại diện Cục Quản lý nhà và Thị trường bất động sản - Bộ Xây Dựng, Tổng cục Quản lý đất đai - Bộ Tài Nguyên Môi trường, Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính, Cục Kiểm tra văn bản- Bộ Tư Pháp, đại diện Sở Xây dựng Hà Nội và Hiệp hội Bất động sản Việt Nam.

Các đại biểu tham dự buổi tham vấn đã thảo luận về quy định trong tính diện tích sàn căn hộ đối với nhà chung cư giữa các văn bản: Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT ngày 21/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường (Thông tư 17), Thông tư số 16/2010/TT-BXD ngày 1/9/2010 của Bộ Xây dựng (Thông tư 16), Nghị định số 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 (Nghị định 71) và Luật Nhà ở số 56/2005/QH11.

Thông tư 16 của Bộ Xây dựng quy định, trong hợp đồng mua bán căn hộ chung cư phải ghi rõ: diện tích sàn căn hộ mua bán (được xác định theo nguyên tắc tính kích thước thông thuỷ của căn hộ hoặc tính từ tim tường bao, tường ngăn chia các căn hộ); đồng thời, tại Mẫu hợp đồng mua bán căn hộ chung cư (Phụ lục số 16) ghi rõ “Bên mua được quyền sở hữu riêng đối với diện tích sàn căn hộ là ..... m2 sàn”. Tuy nhiên, hai cách tính diện tích sàn căn hộ này cho kết quả khác nhau về kích thước, ranh giới và diện tích căn hộ.

Thông tư 17 quy định việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở đối với căn hộ chung cư thì ghi diện tích sàn căn hộ theo hợp đồng mua bán căn hộ.

Trong khi đó Luật Nhà ở và Nghị định 71 đã quy định rõ phần sở hữu riêng và phần sở hữu chung nhà chung cư, trong đó phần sở hữu chung bao gồm cả tim tường bao, tường ngăn chia các căn hộ. Đồng thời, quy định phần diện tích sở hữu chung được dùng để sử dụng chung cho các chủ sở hữu nhà chung cư.

Như vậy giữa các văn bản nêu trên đã thể hiện sự thiếu thống nhất về phương pháp tính diện tích căn hộ chung cư để xác lập quyền sở hữu theo quy định.

Theo các chuyên gia, việc Thông tư 16 quy định “thêm” cách tính diện tích căn hộ chung cư so với quy định của Luật Nhà ở và Nghị định 71 rất có thể là nguyên nhân của những vướng mắc, phức tạp cho người dân khi thực hiện các thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu và thực hiện quyền sở hữu nhà ở.

Do có hai cách tính không thống nhất và phù hợp với quy định của Luật Nhà ở, nên nếu cơ quan hành chính Nhà nước cấp Giấy chứng nhận cho trường hợp tính diện tích đến tim tường thì vi phạm Luật Nhà ở, còn nếu không cấp thì gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp.

Ngoài ra, sự khác biệt giữa các văn bản này cũng tạo ra sự không nhất quán trong thu tiền sử dụng đất, có thể là nguyên nhân của không công bằng giữa các doanh nghiệp, là kẽ hở cho tham nhũng, thất thoát thuế của Nhà nước. Theo phương pháp thặng dư để tính tiền sử dụng đất tại Thông tư số 145/TT-BTC ngày 06/12/2007 của Bộ Tài chính thì tiền sử dụng đất phải nộp bằng tổng thu ước tính trừ đi tổng chi ước tính, trong đó tổng thu ước tính bằng diện tích sàn căn hộ nhân với giá bán theo thị trường. Do không có quy định diện tích sàn căn hộ khi tính thuế thống nhất với diện tích sàn căn hộ khi bán nên tổng thu ước tính và tổng thu khi bán có thể chênh lệch dẫn đến Nhà nước có thể thất thu một khoản tiền sử dụng đất.

Tại Công văn số 289/TCQLĐĐ-CĐKTK ngày 29/3/2011 của Tổng cục Quản lý đất đai - Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn các địa phương xác định diện tích sàn theo nội dung: “Diện tích căn hộ ghi vào Giấy chứng nhận đối với các trường hợp sở hữu nhà chung cư vẫn xác định theo hợp đồng mua bán nhà đất đã ký kết phù hợp với quy định của pháp luật về mua bán nhà ở tại thời điểm ký kết hợp đồng. Trường hợp diện tích căn hộ thực tế khi bàn giao khác với hợp đồng đã ký kết thì diện tích được xác định theo thực tế bàn giao".

Các ý kiến phân tích cho rằng, nội dung hướng dẫn của Tổng cục Quản lý đất đai không làm rõ thêm cách tính diện tích căn hộ theo đúng quy định của pháp luật về nhà ở, chưa giải quyết triệt để cách tính diện tích theo “tim tường” hay “thông thủy” trong trường hợp diện tích căn hộ thực tế khi bàn giao khác với hợp đồng đã ký kết. Vì vậy, thực tế chưa tháo gỡ được vướng mắc và tạo thuận lợi cho người dân và cơ quan hành chính thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính sẽ tổng hợp ý kiến tham vấn từ các bên liên quan, tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Theo VGPNEWS

Nhãn:

Tính tiền sử dụng đất vượt hạn mức

08:59 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /


Ngày 6-10, UBND TP.HCM tổ chức cuộc họp với các quận, huyện, sở, ngành về dự thảo hệ số điều chỉnh bảng giá đất để xác định tiền sử dụng đất cho phần diện tích vượt hạn mức đất của hộ gia đình, cá nhân.
Trước đó, vào đầu tháng 8, liên sở Tài chính, Xây dựng, TN&MT và Cục Thuế TP đã trình TP dự thảo theo hướng toàn bộ phần diện tích vượt hạn mức đất ở sẽ nộp tiền sử dụng đất gấp hai lần bảng giá đất, không phân biệt trường hợp công nhận quyền sử dụng đất hay chuyển mục đích sử dụng đất.

Được biết tại cuộc họp, nhiều ý kiến thống nhất không ban hành hệ số hai lần để áp dụng cho toàn bộ diện tích đất vượt hạn mức như tờ trình của liên sở. Cụ thể, hệ số hai lần chỉ được tính trong trường hợp công nhận quyền sử dụng đất và áp dụng cho phần diện tích vượt hạn mức đất ở nhưng chỉ tối đa bằng 50% hạn mức đất ở. Phần diện tích vượt hạn mức còn lại (nếu có) và trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất sẽ nộp theo giá thị trường. UBND quận, huyện được giao nhiệm vụ thuê đơn vị tư vấn thẩm định giá thị trường trên địa bàn và giá này sẽ ổn định trong vòng sáu tháng. Cách tính này được cho rằng sẽ tương đối sát với yêu cầu của Nghị định 69/2009 (tiền sử dụng đất nộp theo giá thị trường).

Ví dụ, ông A xin hợp thức hóa 300 m2 đất tại quận Gò Vấp và được công nhận, giờ nộp tiền sử dụng đất. Theo Quyết định 64/2001 của UBND TP.HCM về hạn mức đất ở, quận nội thành như Gò Vấp có hạn mức không quá 160 m2. Như vậy, ông A vượt hạn mức 140 m2. Nếu tính theo đề xuất mới, tiền sử dụng đất của ông A được tính như sau:
+ Phần trong hạn mức (160 m2) được nộp theo bảng giá đất.
+ Phần ngoài hạn mức (140 m2): Ông A được nộp 80 m2 (tức 50% của hạn mức đất ở) theo hai lần bảng giá đất. Phần diện tích đất vượt hạn mức còn lại (60 m2), ông A phải nộp theo giá thị trường.

Được biết Sở Tài chính được giao nhiệm vụ hoàn chỉnh lại dự thảo về hệ số điều chỉnh tiền sử dụng đất để trình Thường trực UBND TP xem xét trước khi TP ký ban hành.
Theo C.Tú
Pháp Luật TPHCM

Nhãn:

Tóm tắt một số VBPL có hiệu lực từ tháng 10/2011

09:06 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /

1.                  Phòng, chống rửa tiền trong hoạt động kinh doanh bất động sản:
Ngày 16/10/2011, Thông tư số 12/2011/TT-BXD do Bộ Xây dựng ban hành ngày 01/9/2011 hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/6/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền đối với hoạt động kinh doanh bất động sản sẽ có hiệu lực thi hành. Theo đó, tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản và kinh doanh dịch vụ bất động sản; tổ chức, cá nhân có liên quan đến kinh doanh bất động sản và kinh doanh dịch vụ bất động sản phải tuân thủ các quy định về phòng, chống rửa tiền trong hoạt động kinh doanh bất động sản như sau:
1.1             Xây dựng Quy chế nội bộ về phòng, chống rửa tiền.
1.2             Bố trí cán bộ hoặc thành lập bộ phân chuyên trách chịu trách nhiệm về phòng, chống rửa tiền.
1.3             Xây dựng quy trình tìm hiểu, nhận biết khách hàng.
1.4             Theo dõi và báo cáo các giao dịch tiền mặt (hoặc bằng ngoại tệ, bằng vàng có giá trị tương đương) có giá trị lớn.
1.5             Báo cáo các giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu liên quan đến hoạt động rửa tiền.
1.6             Đào tạo về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản cho cán bộ và nhân viên liên quan đến giao dịch bất động sản.
1.7             Có quyền không thực hiện giao dịch bất động sản mà không phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với những thiệt hại phát sinh từ việc này, đồng thời báo cáo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các trường hợp:
+       Các giao dịch có liên quan đến tổ chức, cá nhân thuộc danh sách cảnh báo liên quan đến hoạt động tội phạm do Bộ Công an cung cấp nhằm phòng ngừa và đấu tranh phòng chống rửa tiền theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 10 Nghị định 74/2005/NĐ-CP.
+       Khi có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan tới hoạt động phạm tội;
+       Các giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

2.                  Cá nhân được mua ngoại tệ với mức 100USD/người/ngày:
Kể từ ngày 15/10/2011 khi Thông tư số 20/2011/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 29/8/2011 quy định việc mua, bán ngoại tệ tiền mặt của cá nhân với tổ chức tín dụng được phép thì:
2.1             Cá nhân là công dân Việt Nam được mua ngoại tệ tiền mặt (là đồng tiền của nước nơi công dân Việt Nam đến hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi khác trong trường hợp không có đồng tiền của nước nơi công dân Việt Nam đến) tại tổ chức tín dụng được phép với hạn mức là 100 USD/người/ngày hoặc các loại ngoại tệ khác có giá trị tương đương trong khoảng thời gian lưu trú ở nước ngoài là 10 (mười) ngày để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của bản thân và trẻ em chung hộ chiếu với cha hoặc mẹ, bao gồm tiền ăn, tiền tiêu vặt, tiền đi lại ở nước ngoài liên quan đến các mục đích sau:
+   Học tập, chữa bệnh ở nước ngoài;
+   Đi công tác, du lịch, thăm viếng ở nước ngoài.
2.2             Đối với các mục đích hợp pháp khác: trả các loại phí, lệ phí cho nước ngoài; trợ cấp cho thân nhân đang ở nước ngoài; chuyển tiền thừa kế cho người hưởng thừa kế ở nước ngoài; chuyển tiền trong trường hợp định cư ở nước ngoài; các mục đích chuyển tiền một chiều cho các nhu cầu hợp pháp khác thì cá nhân có thể mua ngoại tệ tiền mặt tại tổ chức tín dụng được phép tùy theo khả năng cân đối nguồn ngoại tệ tiền mặt của tổ chức tín dụng.
2.3             Cá nhân là người nước ngoài có nguồn thu hợp pháp bằng đồng Việt Nam được mua ngoại tệ tiền mặt tại tổ chức tín dụng được phép phù hợp với các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối.
2.4             Cá nhân bán ngoại tệ tiền mặt tại tổ chức tín dụng được phép và Đại lý đổi ngoại tệ của tổ chức tín dụng được phép theo quy định hiện hành về quản lý ngoại hối.

3.                  Điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng cao nhất lên đến 2 triệu/tháng:
Mức lượng tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có thuê mướn lao động áp dụng từ ngày 01/10/2011 đến 31/12/2012 theo Nghị định số 70/2011/NĐ-CP ngày 22/8/2011 của Chính phủ (có hiệu lực từ ngày 05/10/2011) và Thông tư số 23/2011/TT-BLĐTBXH ngày 16/9/2011 của Bộ Lao động Thương binh Xã hội (có hiệu lực từ ngày 31/10/2011) như sau: 
3.1             Mức 2.000.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng I[1].
3.2             Mức 1.780.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng II.
3.3             Mức 1.550.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng III.
3.4             Mức 1.400.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên các địa bàn thuộc vùng IV.
3.5             Mức tiền lương thấp nhất trả cho người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề) phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng nêu trên.

4.                  Miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp
Kể từ ngày 01/10/2011 Thông tư số 120/2011/TT-BTC ngày 16/8/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 20/2011/NĐ-CP ngày 23/3/2011 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội về miễn, giảm tiền sử dụng đất nông nghiệp sẽ có hiệu lực thi hành, theo đó, việc xét, quyết định miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp từ năm thuế 2011 đến hết năm thuế 2020 được thực hiện như sau:
4.1             Đối tượng được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp:
a)     Toàn bộ diện tích đất nông nghiệp phục vụ nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm; diện tích đất trồng cây hàng năm có ít nhất một vụ lúa trong năm; diện tích đất làm muối.
Diện tích đất trồng cây hàng năm có ít nhất một vụ lúa trong năm bao gồm diện tích đất có quy hoạch, kế hoạch trồng ít nhất một vụ lúa trong năm hoặc diện tích đất có quy hoạch, kế hoạch trồng cây hàng năm nhưng thực tế có trồng ít nhất một vụ lúa trong năm.
b)     Toàn bộ diện tích đất nông nghiệp được Nhà nước giao hoặc công nhận cho hộ nghèo.
c)     Diện tích đất nông nghiệp trong hạn mức giao đất nông nghiệp cho các đối tượng sau đây:
+   Hộ gia đình, cá nhân nông dân được Nhà nước giao hoặc công nhận đất để sản xuất nông nghiệp, bao gồm cả đất được thừa kế, cho tặng, nhận chuyển quyền sử dụng đất.
+   Hộ gia đình, cá nhân là xã viên hợp tác xã sản xuất nông nghiệp đã nhận đất giao khoán ổn định của hợp tác xã, nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh để sản xuất nông nghiệp theo quy định của pháp luật.
Việc giao khoán đất của hợp tác xã và nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh để sản xuất nông nghiệp thực hiện theo quy định tại Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 8/11/2005 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành.
+   Hộ gia đình, cá nhân là nông trường viên, lâm trường viên đã nhận đất giao khoán ổn định của nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh để sản xuất nông nghiệp theo quy định của pháp luật.
+   Hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp có quyền sử dụng đất nông nghiệp góp đất của mình để thành lập hợp tác xã sản xuất nông nghiệp theo quy định của Luật hợp tác xã.
4.2             Đối tượng được giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp:
a)     Giảm 50% số thuế sử dụng đất nông nghiệp ghi thu hàng năm đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức giao đất nông nghiệp nhưng không quá hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 3 Điều 1 của Nghị định số 20/2011/NĐ-CP.
Đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp thì phải nộp 100% thuế sử dụng đất nông nghiệp.
b)     Đối với diện tích đất nông nghiệp mà Nhà nước giao cho tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các đơn vị khác được quy định như sau:
+   Giảm 50% số thuế sử dụng đất nông nghiệp ghi thu hàng năm đối với diện tích đất nông nghiệp mà Nhà nước giao cho tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các đơn vị khác đang trực tiếp sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp.
+   Đối với diện tích đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các đơn vị khác đang quản lý nhưng không trực tiếp sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp mà giao cho tổ chức, cá nhân khác nhận thầu theo hợp đồng để sản xuất nông nghiệp thì thực hiện thu hồi đất theo quy định của Luật đất đai. Trong thời gian nhà nước chưa thu hồi đất thì phải nộp 100% thuế sử dụng đất nông nghiệp.
c)     Giảm 50% số thuế sử dụng đất nông nghiệp ghi thu hàng năm đối với diện tích đất nông nghiệp mà Nhà nước giao cho đơn vị vũ trang nhân dân quản lý sử dụng.

5.                  Áp dụng mức lệ phí trước bạ từ 10 - 20% cho xe ôtô con và xe bán tải:
Căn cứ tính lệ phí trước bạ là giá tính lệ phí trước bạ và tỷ lệ (%) lệ phí trước bạ; mức thu lệ phí trước bạ đối với các tài sản tối đa là 500 triệu đồng/1 tài sản/lần trước bạ, trừ ôtô chở người dưới 10 chỗ ngồi (kể cả lái xe), tàu bay, du thuyền. Giá tính lệ phí trước bạ là giá do UBND cấp tỉnh ban hành để làm căn cứ tính lệ phí trước bạ.
Tỷ lệ (%) lệ phí trước bạ nhà, đất là 0,5%; súng săn, súng thể thao là 2%; tàu thuỷ, sà lan, ca nô, tàu kéo, tàu đẩy, thuyền, du thuyền, tàu bay là 1%; xe máy mức thu là 2% (Riêng xe máy của tổ chức, cá nhân ở các thành phố trực thuộc Trung ương; thành phố thuộc tỉnh; thị xã nộp lệ phí trước bạ lần đầu với mức là 5%, lần thứ 2 trở đi được áp dụng mức thu là 1%); ôtô, rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ôtô là 2% (Riêng ôtô chở người dưới 10 chỗ ngồi, bao gồm cả trường hợp ôtô bán tải vừa chở người, vừa chở hàng thì nộp lệ phí trước bạ theo tỷ lệ từ 10% đến 20%).
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2011 và thay thế Thông tư số 68/2010/TT-BTC ngày 26/10/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn về lệ phí trước bạ.

6.                  Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua trái phiếu của doanh nghiệp
Theo hướng dẫn của Thông tư số 28/2011/TT-NHNN ngày 01/9/2011 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn về việc mua trái phiếu doanh nghiệp của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì kể từ ngày 20/10/2011, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành để bán lần đầu cho các đối tượng mua trên thị trường sơ cấp trong lãnh thổ Việt Nam (sau đây gọi là mua trái phiếu doanh nghiệp), bao gồm cả trường hợp tổ chức tín dụng mua số trái phiếu doanh nghiệp còn lại chưa bán hết cho đối tượng mua theo cam kết bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trừ trường hợp mua, bán trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát hành; mua, bán lại trái phiếu doanh nghiệp giữa các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với nhau; mua, bán lại trái phiếu doanh nghiệp giữa tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với cá nhân và tổ chức không phải là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; mua, bán trái phiếu phát hành trên thị trường quốc tế, được quy định như sau:
6.1             Các loại trái phiếu doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được xem xét mua:
+   Trái phiếu phát hành theo quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
+   Trái phiếu phát hành theo quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng.
6.2             Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thực hiện việc mua trái phiếu doanh nghiệp khi có đủ các điều kiện:
+   Là ngân hàng thương mại, công ty tài chính hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng.
+   Trong giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp có ghi nội dung mua trái phiếu doanh nghiệp.
+   Đảm bảo các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
+   Có Hệ thống và thực hiện xếp hạng tín dụng nội bộ, trong đó có xếp hạng tín dụng đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu.
+   Ban hành Quy định về mua trái phiếu doanh nghiệp phù hợp quy định tại Thông tư 28/2011/TT-NHNN và các quy định của pháp luật liên quan, trong đó có nội dung: Quy trình, thủ tục thẩm định và quyết định mua trái phiếu; trách nhiệm và thẩm quyền của cá nhân, đơn vị trong việc xét duyệt, quyết định mua trái phiếu; các loại và đặc điểm trái phiếu được tổ chức tín dụng, chi nhánh nước ngoài mua; điều kiện của trái phiếu doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua; các chính sách và giới hạn quản lý tín dụng, hệ thống đo lường và quản trị rủi ro, biện pháp và quy trình xử lý rủi ro; thực hiện các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh; kiểm soát nội bộ hoạt động mua trái phiếu.
6.3             Giới hạn mua trái phiếu doanh nghiệp:
+   Tổng mức đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp được tính vào tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng, đối với một khách hàng và người có liên quan theo quy định tại Điều 128 Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định có liên quan của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
+   Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài quy định cụ thể các giới hạn mua trái phiếu doanh nghiệp: Mua trái phiếu của một doanh nghiệp phát hành; mua trái phiếu của một doanh nghiệp phát hành và doanh nghiệp liên quan phát hành; mua trái phiếu doanh nghiệp có bảo đảm, không có bảo đảm; mua trái phiếu doanh nghiệp với mục đích để bán, để đầu tư và giữ đến ngày đáo hạn.
+   Chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được mua trái phiếu chuyển đổi.

7.                  Được vay vốn tín dụng đầu tư tối đa 70% tổng vốn đầu tư của dự án:
Theo quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP quy định về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của nhà nước được Chính phủ ban hành ngày 30/8/2011 và có hiệu lực từ ngày 20/10/2011, Chính phủ quy định rõ chế độ cho vay ưu đãi đối với các doanh nghiệp đầu tư các dự án bất động sản. Cụ thề:
Các dự án bất động sản được vay vốn tín dụng ưu đãi bao gồm:
+   Dự án xây dựng nhà ở cho sinh viên thuê, dự án nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp thuê, dự án nhà ở cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ thuộc Nhóm A, B và C.
+   Dự án đầu tư hạ tầng, mở rộng, nâng cấp, xây dựng mới và thiết bị trong lĩnh vực xã hội hóa: giáo dục đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường thuộc Danh mục hưởng chính sách khuyến khích phát triển theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ thuộc Nhóm A, B.
+   Dự án hạ tầng khu công nghiệp, khu công nghiệp hỗ trợ, khu chế xuất, khu công nghệ cao thuộc Nhóm A, B.
Điều kiện cho vay:
+   Thực hiện đầy đủ thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật.
+   Chủ đầu tư có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, bảo đảm trả được nợ; được Ngân hàng Phát triển Việt Nam thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ và chấp thuận cho vay.
+   Chủ đầu tư có vốn chủ sở hữu tham gia dự án tối thiểu 20% và phải bảo đảm đủ nguồn vốn để thực hiện dự án, các điều kiện tài chính cụ thể của phần vốn đầu tư ngoài phần vốn vay tín dụng đầu tư của Nhà nước.
+   Chủ đầu tư thực hiện bảo đảm tiền vay.
+   Chủ đầu tư phải mua bảo hiểm tài sản tại một doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động hợp pháp tại Việt Nam đối với tài sản hình thành từ vốn vay thuộc đối tượng mua bảo hiểm bắt buộc trong suốt thời hạn vay vốn.
+   Chủ đầu tư phải thực hiện chế độ hạch toán kế toán, báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật; báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi cơ quan kiểm toán độc lập.
Mức vốn cho vay:
+   Mức vốn cho vay đối với mỗi dự án tối đa bằng 70% tổng mức vốn đầu tư của dự án (không bao gồm vốn lưu động), đồng thời phải đảm bảo mức vốn cho vay tối đa đối với mỗi chủ đầu tư không được vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Mức vốn cho vay đối với từng dự án, chủ đầu tư do Tổng Giám đốc Ngân hàng Phát triển Việt Nam quyết định.
+   Trường hợp đặc biệt, dự án, chủ đầu tư nhất thiết phải vay với mức cao hơn mức tối đa theo quy định nêu trên, Ngân hàng Phát triển Việt Nam báo cáo Bộ Tài chính để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Thời hạn cho vay: Thời hạn cho vay được xác định theo khả năng thu hồi vốn của dự án và khả năng trả nợ của chủ đầu tư phù hợp với đặc điểm sản xuất, kinh doanh của dự án nhưng không quá 12 năm. Tổng Giám đốc Ngân hàng Phát triển Việt Nam quyết định thời hạn cho vay đối với từng dự án.
Lãi suất cho vay:
+   Lãi suất cho vay đầu tư không thấp hơn lãi suất bình quân các nguồn vốn cộng với phí hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
+   Tổng Giám đốc Ngân hàng Phát triển Việt Nam tính toán mức lãi suất bình quân các nguồn vốn và chi phí hoạt động báo cáo Chủ tịch Hội đồng quản lý Ngân hàng Phát triển Việt Nam trình Bộ Tài chính công bố lãi suất cho vay tín dụng đầu tư. Trường hợp lãi suất huy động bình quân có biến động lớn, Chủ tịch Hội đồng quản lý Ngân hàng Phát triển Việt Nam báo cáo Bộ Tài chính điều chỉnh lãi suất cho phù hợp.
+   Lãi suất nợ quá hạn đối với mỗi khoản giải ngân bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn đối với từng khoản giải ngân.
Mức hỗ trợ sau đầu tư: Bộ Tài chính quyết định mức hỗ trợ sau đầu tư trên cơ sở chênh lệch giữa lãi suất vay vốn đầu tư của các tổ chức tín dụng và lãi suất vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước và đề nghị của Chủ tịch Hội đồng quản lý Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Thời điểm công bố mức hỗ trợ sau đầu tư cùng với thời điểm công bố lãi suất tín dụng đầu tư.

8.                  Phạt tới 100 triệu đồng đối với hành vi vi phạm về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
Theo Nghị định số 73/2011/NĐ-CP ngày 24/8/2011 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (có hiệu lực từ ngày 15/10/2011), mức phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả được quy định tối đa lên đến 100 triệu đồng.
Trong đó, phạt tiền từ 10 đến 30 triệu đồng đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp không thực hiện các quy chuẩn kỹ thuật, biện pháp quản lý công nghệ sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả bắt buộc áp dụng quy định tại Điều 24 Nghị định số 21/2011/NĐ-CP ngày 29/3/2011 của Chính phủ.
Mức phạt là từ 20 đến 30 triệu đồng đối với hành vi không thực hiện đúng các quy định về định mức sử dụng năng lượng, quy chuẩn kỹ thuật trong thiết kế, thi công, sử dụng vật liệu xây dựng nhằm tiết kiệm năng lượng do Bộ Xây dựng ban hành.
Trong hoạt động vận tải, hành vi sản xuất thiết bị, phương tiện vận tải không tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật, mức tiêu thụ năng lượng về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong sản xuất thiết bị, phương tiện vận tải bị phạt từ 50 đến 70 triệu đồng. Mức phạt sẽ lên đến 100 triệu đồng nếu nhập khẩu thiết bị, phương tiện vận tải không tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật, định mức tiêu thụ năng lượng về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đối với thiết bị, phương tiện vận tải.
Phạt tiền từ 30 đến 50 triệu đồng đối với hành vi cung cấp sai thông tin hiệu suất năng lượng trên nhãn năng lượng so với Giấy chứng nhận dán nhãn năng lượng của phương tiện, thiết bị được cơ quan có thẩm quyền cấp. Dán nhãn năng lượng cho phương tiện, thiết bị không đúng với Giấy chứng nhận dán nhãn năng lượng hoặc chưa được cấp Giấy chứng nhận dán nhãn năng lượng bị phạt từ 50 đến 70 triệu đồng.

(Theo DLF)

[1] Phân chia vùng cụ thể được thực hiện theo quy định tại Phụ lục bàn hành kèm theo Nghị định 70/2011/NĐ-CP.

Nhãn:

Dự thảo về cấp GPXD: Một số quy định gây khó cho dân

12:05 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /

Bộ Xây dựng vừa hoàn chỉnh dự thảo nghị định về giấy phép xây dựng và quản lý xây dựng theo giấy phép. Tuy nhiên một số nội dung trong dự thảo nếu thực hiện sẽ gây khó cho người dân.


Dự thảo nghị định buộc các sở xây dựng phải lấy ý kiến của Bộ Xây dựng khi cấp phép xây dựng (CPXD) đối với công trình tại khu vực chưa có quy hoạch chi tiết, theo các chuyên gia, gây phiền phức thêm cho người dân - Ảnh minh họa: TTO

Theo dự thảo nghị định CPXD, hồ sơ xin phép xây dựng đối với nhà ở riêng lẻ phải có thêm thiết kế kỹ thuật công trình, thay vì trước nay chỉ cần đơn đề nghị CPXD, giấy chủ quyền, bản vẽ. Theo phòng quản lý đô thị các quận huyện ở TP.HCM, yêu cầu nhà ở riêng lẻ phải có thiết kế kỹ thuật là không cần thiết.
Một điểm mới có lợi cho người dân là dự thảo nghị định quy định trong vòng 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, nếu hồ sơ còn thiếu thì cơ quan thẩm quyền phải yêu cầu bổ sung ngay và chỉ bổ sung một lần. Sau thời gian trên, cơ quan chức năng không có ý kiến xem như đồng ý cho chủ đầu tư xây dựng công trình và phải chịu trách nhiệm về những vấn đề thuộc chức năng quản lý của mình.

Ngoài một số quy định có lợi cho người dân nói trên, dự thảo nghị định buộc các sở xây dựng phải lấy ý kiến của Bộ Xây dựng khi cấp phép xây dựng (CPXD) đối với công trình tại khu vực chưa có quy hoạch chi tiết, chưa có quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc và thiết kế đô thị được duyệt... UBND quận huyện cũng phải hỏi ý kiến của sở xây dựng với những công trình thuộc thẩm quyền CPXD của quận huyện tại những khu vực tương tự như trên.

Theo một chuyên gia trong lĩnh vực này, trước nay tùy theo quy mô công trình, UBND TP.HCM giao Sở Xây dựng hoặc phân cấp cho UBND quận huyện cấp phép. Tất cả công trình do Sở Xây dựng CPXD đều không phải hỏi ý kiến của Bộ Xây dựng, trừ khi có phát sinh vướng mắc. UBND quận huyện cũng CPXD những công trình được phân cấp và tự chịu trách nhiệm về những công trình đó. Nếu áp dụng như dự thảo nghị định là phải hỏi ý kiến Bộ Xây dựng đối với những công trình ở khu vực chưa có quy hoạch chi tiết..., ước có khoảng 40.000 hồ sơ CPXD (trong tổng số 46.000 hồ sơ CPXD của toàn TP.HCM trong năm 2010) quận huyện phải hỏi ý kiến của Sở Xây dựng TP hoặc Sở Xây dựng hỏi ý kiến Bộ Xây dựng, do hiện nay nhiều khu vực chưa có quy hoạch chi tiết, thiết kế đô thị được duyệt... Việc hỏi ý kiến như vậy mất rất nhiều thời gian, gây phiền phức thêm cho người dân.

Dự thảo cũng quy định: mỗi công trình được gia hạn giấy phép xây dựng một lần, thời hạn tối đa không quá một năm. Hết thời gian gia hạn nhưng công trình vẫn chưa xây dựng thì chủ đầu tư phải làm thủ tục xin CPXD mới.

Trưởng phòng quản lý đô thị một quận ở TP.HCM cho biết trước nay giấy phép xây dựng có hiệu lực trong vòng một năm. Nếu chưa xây dựng thì trước thời gian trên, người dân phải xin gia hạn giấy phép tiếp và không giới hạn số lần gia hạn. Trường hợp người dân để giấy phép xây dựng hết hiệu lực hoặc khu vực được CPXD có thay đổi quy hoạch thì mới xin CPXD lại. Nhưng nếu áp dụng theo đề xuất của Bộ Xây dựng, người dân sẽ gặp khó khăn hơn so với quy định trước nay.

Trao đổi với PV, một lãnh đạo Bộ Xây dựng cho rằng bộ cũng đã lường được những khó khăn các địa phương sẽ gặp phải khi áp dụng các nội dung trên, nhưng nếu không quy định như vậy, các địa phương sẽ rất chậm trong việc lập quy hoạch chi tiết. Giải thích về quy định mỗi công trình chỉ được gia hạn CPXD một lần, lãnh đạo Bộ Xây dựng cho rằng quy định này nhằm thúc đẩy các chủ đầu tư sớm xây dựng công trình, tránh tình trạng chủ đầu tư kéo dài, không xây dựng công trình để đất hoang, làm mất mỹ quan đô thị.

Một chuyên gia về xây dựng nói rằng giải thích trên của lãnh đạo Bộ Xây dựng chưa thuyết phục. Các địa phương làm quy hoạch chậm, Bộ Xây dựng cần có những biện pháp chế tài, thúc đẩy việc quy hoạch chi tiết sớm hơn chứ không thể đưa vào quy định để “hành” người dân bằng cách “xin ý kiến”. Như vậy chẳng khác nào “cải lùi” thủ tục CPXD vốn cần được cải tiến cho thoáng, có lợi cho dân hơn...

Nhãn:

Rà soát luật Đất đai: Sửa luật để giảm nguy cơ bất ổn xã hội

12:08 / Người đăng: Luật sư Lê Văn Huyên /


Thu hồi đất và việc coi trọng quyền sở hữu tài sản của công dân là một nội dung của hội thảo Hoàn thiện báo cáo rà soát Luật Đất đai do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức hôm qua.
“Sở hữu toàn dân” có chính xác?

TS Trần Quang Huy - Trưởng Bộ môn Đất đai, ĐH Luật Hà Nội trong báo cáo rà soát Luật Đất đai của mình đã chỉ ra rằng giữa Hiến pháp 1992, Luật Đất đai 2003 và Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa có sự thống nhất về sở hữu đối với đất đai.

Cụ thể, trong khi Hiến pháp và Luật Đất đai xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu toàn dân và thống nhất quản lý thì Bộ luật Dân sự lại xác định đất đai thuộc hình thức sở hữu Nhà nước.

Chia sẻ với ý kiến này nhưng luật sư Nguyễn Tiến Lập cho rằng khái niệm “Sở hữu toàn dân” như Hiến pháp 1992 quy định không thể đơn giản được coi là “Sở hữu nhà nước” và sở hữu nhà nước cũng không đơn giản là sở hữu của các cơ quan chính quyền theo phân cấp từ xã đến huyện, tỉnh và trung ương.

Thậm chí sở hữu toàn dân hay trạng thái “vô chủ” về đất đai đã vô tình tạo điều kiện cho sự lạm dụng tràn lan trong sử dụng quỹ đất cho lợi ích của các nhóm tư nhân hơn là lợi ích của toàn dân.

Còn luật sư Trương Thanh Đức khá gay gắt cho rằng quyền sử dụng đất hiện nay cũng chẳng khác gì quyền sở hữu, thì sao cứ phải cố tình đánh tráo khái niệm?

Thu hồi đất tràn lan tiềm ẩn bất ổn xã hội

Liên quan cơ chế thu hồi đất, báo cáo rà soát Luật Đất đai cũng chỉ ra việc cần phân biệt các cơ chế khác nhau trong việc thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia và cho các mục tiêu phát triển kinh tế.

TS Phạm Sỹ Liêm, Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam cho rằng ông chưa thấy một quốc gia nào đưa phát triển kinh tế vào mục đích thu hồi đất, vì họ rất coi trọng quyền sở hữu tài sản của công dân. Trong khi điều 23 Hiến pháp nước ta quy định đất đai “trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường” thì điều 38 Luật Đất đai ngoài quy định đó còn bổ sung thêm “lợi ích công cộng, phát triển kinh tế”!

“Vậy luật có quyền quy định như thế không, có vi hiến không?”, Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng đặt câu hỏi.

Cũng theo TS Phạm Sỹ Liêm thì chính việc mở rộng tràn lan phạm vi thu hồi đất ra quá tầm kiểm soát như hiện nay đã biến việc này trở thành tiêu điểm của phần lớn bất ổn xã hội và cũng là cơ hội tham nhũng cho một số quan chức.

Đồng tình với ý kiến đó, luật sư Nguyễn Tiến Lập nhắc đến chuyện Trung Quốc cũng đã tranh luận về vấn đề tương tự và đi đến khẳng định rằng “lợi ích quốc gia” hay “lợi ích công cộng” phải được hiểu là cho tất cả mọi người.

Từ đó ông Lập cho rằng việc nhiều dự án kinh tế được cấp đất sau khi thu hồi của người dân vừa qua không thể coi là dự án vì lợi ích quốc gia theo tinh thần của Hiến pháp được.

Một số ý kiến đề cập thực tế Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang trở thành một rào cản pháp lý làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người sử dụng đất.

Luật sư Nguyễn Minh Thắng cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là nghĩa vụ, là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, và nhà nước không được hạn chế quyền của người sử dụng đất chỉ vì yếu tố hình thức là không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo Cao Nhật
Tiền Phong

Nhãn: